Kỳ trước, Chương 2: Xuân Quê Hương.
Hút hơi thuốc dài, Vũ ngó ra ngoài sông một lúc, ngập ngừng, nói nhỏ:
– … chắc nó… “đi” rồi!
Tôi nghe mất mát, nát trong lòng:
– Ừ!… chắc vậy rồi… mong nó bình an!
Vũ ngẫm nghĩ:
– Mùa này… biển bắt đầu êm rồi!
Vũ tìm một lý do để cùng tôi thấy an tâm hơn về Phát. Nhưng cả hai đều biết, tin tức nhận được
về vượt biển thường có lắm đau thương. Cái giá của tự do đánh đổi bằng chính mạng sống của mình và
người thân. Ai cũng biết, vượt biên bằng đường bộ hay vượt biển qua đại đương mênh mông, là lao thân
mình vào hiểm nguy muôn bề; nhưng người ta phải chấp nhận khi ra đi tìm tự do.
Mùa biển êm hay mùa biển động, người ta vẫn ra đi. Giờ này đây, bao con thuyền mong manh
đang đưa thuyền nhân lênh đênh vượt đại dương tìm đến bến bờ tự do…
Chúng tôi yên lặng, nhìn theo khói thuốc. Khói thuốc cuốn bay theo gió. Chợt nghe khói thuốc
như vương cay đôi mắt. Hai đứa tôi nhìn theo bóng dáng chiếc ghe ngoài sông xa dần, lòng chập chùng
với lắm ưu tư…
Đây! Chương 3: Con Thuyền
. . .
Chiếc ghe trên sông đã khuất dạng tự bao giờ. Cà phê hết. Bình trà cũng cạn. Quán lưa
thưa người, có xin thêm trà và ngồi lâu hơn cũng không sao. Nhưng hai đứa tôi muốn tìm cái
gì đó khuây khỏa hơn là ngồi tư lự; nghĩ về thằng bạn Phát đã trốn đi, đã vượt biển tìm tự do,
nghĩ về thân phận và số phần của chính mình.
– Chờ tao chút…
Vũ đứng dậy bảo tôi, rồi bước vào bên trong quán. Mua thêm gói thuốc hút xong, trở ra
thấy tôi đang ngồi nhìn ra ngoài sông, Vũ khều vai gọi tôi:
– Đi! Tụi mình đi!
Tôi đứng dậy, lặng yên đi theo bạn đến chỗ dựng xe. Tin Phát đã vượt biển còn vương vấn
trong lòng, làm mình thấy cái gì đó trống vắng, ưu tư…
Vũ đạp cho xe nổ máy rồi hỏi tôi:
– Mày rảnh không?
Leo lên yên xe, ngồi sau lưng bạn, đầu óc tôi còn lan man tưởng nghĩ đến Phát và những
chuyến vượt biển chập chờn giữa đại dương mênh mông sóng nước, tôi lừng khừng:
– Thì… cũng rảnh… cần gì, thì nói đi bạn hiền.
Vũ khẽ nghiêng đầu ra sau nói với tôi:
– Không làm gì, thì đi theo tao… đi lấy “chưn vịt”!
“Chưn vịt” là tiếng bình dân gọi cái cánh quạt quay theo động cơ để đẩy ghe tàu chạy.
Tôi ngạc nhiên:
– Chưn vịt à? … ghe của ai vậy?
– … của bác Chín!
Tôi biết bác Chín của Vũ nên vui vẻ nhận lời đi theo bạn mình ngay:
– Ừ! Đi thì đi! … Bữa nay tao nghỉ. Ngày mai, ghe chở đường mới tới!
Tôi kiếm được chân phụ việc trong một lò nấu đường nhỏ ở gần nhà; làm được hơn ba
tuần nay. Họ biến chế đường mía thành đường cát trắng. Khuân vác mấy thùng đường không
nặng cho lắm, chỉ cần lưu ý là cái thùng dính đường nhầy nhụa và rất dễ bị nó cắt tay, cắt da
thịt mình. Thùng đựng đường được làm rất thô sơ. Người ta cuốn tròn lớp kẽm mỏng, rồi gò
hàn cho dính lấy có, để đựng đường. Cho nên, chỉ cần sau một vài lần di chuyển, từ lò nấu lên
xe, xuống ghe; các thùng kẽm này, ít hay nhiều đều bị bung hông hay hở đáy. Chỗ mà thùng
đựng đường đã bị bung rách ra, các góc cạnh kim loại vừa nhọn, vừa bén; cắt da thịt cũng rất
ngọt. Lại thêm đường chảy ra dính đầy ngoài thùng, sẽ trây trét từ bàn tay lên cánh tay và bê
bết trên bụng ngực. Tôi không chê công việc này dơ hay nặng, chỉ cầu cho có công việc để
làm mà kiếm tiền phụ với gia đình.
Đường mía có vị ngọt và mùi thơm cũng ngọt ngào!
Nó nhắc mình nhớ thời còn ở trong tù của cộng sản. Vì thiếu ăn, thiếu chất dinh dưỡng,
nên người ta dễ thèm chất ngọt. Mấy người tù may mắn, có thân nhân đi thăm, gởi cho đường
mía, thường chia cho bạn bè quanh mình. Mùi đường lúc thiếu thốn này, thơm nồng nàn,
quyến rũ khứu giác và vị giác vô cùng. Cho lưng muỗng đường nâu đen vào miệng, ngậm nhẹ
nhẹ cho nó chậm tan, để kéo dài giây phút tuyệt vời của chất đường ngọt ngào truyền thấm
vào trong huyết quản, ru mê đầu óc….
Ôi, thật tuyệt vời!
. . .
Vũ chạy qua hai góc đường, rồi cho xe chậm lại, quanh vào con đường nhỏ. Con đường
này dẫn đến khu phố có các loại tiệm chuyên sửa máy, hàn, tiện… các thứ cho ghe tàu gần
bờ sông. Dựng xe trước xưởng máy, Vũ nháy mắt với tôi, hất mặt hướng vào cửa tiệm và
cười cười:
– Vô đây!
Tôi bước theo Vũ vào bên trong. Mùi dầu máy, mùi kim loại và hoá chất bị nóng cháy hăng
hắc, nồng gắt trong bốn bức tường. Thấy có người bước vào tiệm, người đàn ông trọng tuổi
ngó nhanh ra cửa. Nhận ra Vũ, ông liền lên tiếng:
– Tui để ngay cửa đó, mấy cậu.
– Vậy hả, chú Bảy!
Hai người nói khơi khơi, vậy mà có vẻ hiểu ý nhau.
Người mà Vũ gọi là chú Bảy vắn tắt với bạn tôi vài tiếng, rồi chăm chú ngó xuống cái máy
tiện đang chạy rì rầm. Chú Bảy có vẻ bận tâm với món đồ đang làm dở dang; đôi bàn tay điều
khiển cho lưỡi dao chạy gọt ngang, hay cắt sâu hơn vào thỏi kim loại sáng bóng màu đồng,
đang quay đều trên dàn máy.
Theo lời chú Bảy, chúng tôi quay lại, nhìn phía sau lưng, nhận ra cái “chưn vịt” của chiếc
ghe dựng sát cửa ra vào, sẵn sàng cho khách lấy đi. Vũ hớn hở ngồi sụp xuống, vuốt nhẹ lên
cánh quạt bằng đồng, mới toanh, còn sáng bóng:
– Đẹp quá, chú Bảy ơi!
Vũ trầm trồ khen, rồi quay sang nói với tôi; và có ý cho chú Bảy nghe:
– Không phải chỉ đẹp thôi… Chưn vịt mà chú Bảy đây làm là bảo đảm chạy ngon lành!…
Cháu lấy nghen chú?
Nghe vậy, chú Bảy ngẩng lên nhìn Vũ, ánh mắt tươi vui, với niềm tự tin, tự hào. Chú mỉm
cười hài lòng:
– Ừ!… Thì cậu cứ lấy đi … Mấy cậu có mang gì theo để bao chưn vịt lại hông?
Nhìn lỗ trục của cánh quạt, nơi bắt ráp với trục máy, đã được chú Bảy thận trọng che kín,
Vũ tin tưởng:
– Dạ, chú che cái lỗ trục… như vậy là quá ngon rồi. Cháu tính cho nó nằm… lên thùng xe
lôi đạp. Vậy… chắc không cần bao che chi thêm đâu, hả chú?
– Ừ, cứ để “dậy”, không hề hấn gì nó đâu!
– Dạ! … Tụi cháu cám ơn chú Bảy nhiều lắm nghen!
. . .
Cái “chưn vịt”, hay chân vịt, tức là cánh quạt của chiếc ghe, được đúc và tiện bằng đồng,
có đường kính đến gần cả thước, 840 mm đấy; cồng kềnh và khá nặng. Vũ và tôi phụ nhau
khiêng nó ra khỏi tiệm, để ven lề đường và đón xe chở về nơi có chiếc ghe.
Nhìn cánh quạt to lớn, mới toanh, còn sáng bóng nằm dưới chân mình, tôi có phần ái ngại
quá, hỏi ý kiến Vũ:
– Hay là… mình kiếm cái gì đó, bao nó lại cho kín đáo một chút chứ?
Nghe tôi hỏi, Vũ hiểu ý tôi, nhún vai bình thản, nói nhỏ:
– Đừng lo! Khu này chuyên mua bán đồ cho ghe tàu, mấy cái chưn vịt này là thường. Cứ
để trần ra như mọi người. Bao che lại, tụi nó mới để ý mà bu vào xét hỏi.
Biết Vũ quen thuộc với sinh hoạt nơi đây, trông chẳng chút gì lo lắng, và nghe Vũ nói cũng
có lý lắm; tôi tin bạn mình. Chúng tôi chọn loại xe lôi đạp, để nó không chạy lẹ. Ngại là xe gắn
máy lắc mạnh làm cánh quạt rớt xuống đường. Cái cánh quạt to thật. Nó nằm kín mít chỗ để
chân. Tôi ngồi theo chiếc xe lôi đạp, gác hai chân lên cánh quạt, giúp giữ thăng bằng và trông
chừng cái khối đồng có ba cánh to tướng đó. Vũ chạy theo, ngay phía sau chiếc xe lôi chở tôi
và cánh quạt. Đến nơi, Vũ dựng xe trong sân, rồi chạy lẹ ra, để phụ tôi khiêng cánh quạt vào
trong nhà.
Phần sau nhà sát với bờ sông. Trên bãi cạn, một chiếc ghe đang nằm trên giàn gỗ để sơn
trét lườn và đặt máy. Tôi bồi hồi nhìn ngắm chiếc ghe với đoạn cốt máy ló ra dưới lườn, chờ
lắp cánh quạt vào.
Vũ có vẻ lo lắng khi nói cho tôi biết là trọng tải chỉ có 15 tấn. Vũ lo cũng phải, đối với loại
ghe thuyền chở hàng, chỉ có 15 tấn thì nó nhỏ hơn mấy chiếc ghe chài nhiều lắm. Nhưng nó
cũng khá lớn trong sông, nhất là khi nằm cạnh mấy chiếc xuồng con. Còn khi ra ngoài biển, thì
đúng là chiếc ghe này quá nhỏ; cho nên Vũ sợ rằng chiếc ghe không đủ lớn để chịu đựng
sóng gió mà vượt đại dương. Tuy vậy, trong thời buổi hiện tại, có được chiếc ghe và động cơ
như thế này thì quý lắm. Nó là ước mơ của triệu người muốn vượt biển tìm tự do!
Tôi trấn an bạn mình:
– Quá tốt rồi! Ghe nhỏ hơn nhiều mà bà con mình cũng vượt biển được… Đã xin được giấy
phép chưa?
Vũ vui vẻ bảo tôi:
– Xong rồi. Tao mới chạy được cái giấy “đăng ký” hồi tuần trước.
– Giấy “đăng ký”?
Chữ “đăng ký” nghe lạ tai, tôi thắc mắc, lập lại hai cái chữ lạ tai ấy. Vũ nhìn tôi cười cười,
giải thích:
– Ừ!… thì nó đó!… tức là giấy đăng bộ đó!
– Vậy à!
– Nó đó! Bây giờ tụi nó gọi là “đăng ký” … Cái gì cũng là “đăng ký” hết ráo… Ghi danh tụi
nó cũng gọi là “đăng ký” luôn… Mày ráng mà học các thứ chữ mới và nhớ mà nói y chang
theo tụi nó… thì yên thân hơn!
Học thêm một bài học chữ nghĩa rất kỳ dị để sống còn, tôi lắc đầu chán ngán; nhưng hứa
hẹn cho Vũ an tâm:
– Ừ! Tao ráng học và ráng mà nhớ!
Chế độ tham nhũng như hiện nay cũng có cái lợi. Bây giờ, hễ có tiền lo lót, chạy chọt,
chuyện gì cũng có thể lọt qua. Ngó dãy số với màu sơn trông còn trắng và mới trên mui ghe,
tôi tò mò hỏi thăm:
– 3392 chắc là số mới…
– Ừ, số mới đó… Tụi “đăng ký” nó cho đó.
Lại… “đăng ký”! Tôi lầm thầm nói.
Thực ra, mấy cái thứ chữ mới của chế độ này, nó cũng chẳng mới mẻ gì. Trong trại tù,
nghe bộ đội và cán bộ nói riết, muốn… điếc tai luôn. Nhưng, không ngờ bây giờ dân mình
cũng phải tập tành nói năng giống y như thế. Tôi chán ngán mà lặng yên…
. . .
Chiếc ghe trông như đại đa số những ghe chở hàng trên sông ngòi miền Nam. Màu gỗ đen
mốc, cũ kỹ. Cấu trúc tương tự như hầu hết các ghe thuyền trong sông. Mấy khoang ở đầu mũi
được ngăn thành cái hầm ngắn; dùng chứa neo và dây neo, cùng các vật dụng cần thiết khác.
Phía trên hầm có tấm nắp đậy hình chữ nhật, khá lớn; để lấy neo ra và cất vào dễ dàng. Từ
hầm mũi này ra phía sau hầm máy, lòng ghe để mở trống.
Khoang ghe để trống, không che kín bên trên, thì hàng hóa chất vun lên cao được, rất tiện
lợi cho việc lên và xuống hàng từ hai bên hông; nhưng dễ bị chìm khi sóng to ụp vào. Bên trên
thành khoang chứa hàng, có đóng miếng gỗ bề ngang chừng một gang tay. Hai miếng be gỗ
chạy dọc từ mũi xuống sau mui này, vừa giúp kềm vỏ ghe thêm cứng chắc, vừa làm lối đi. Tuy
bề ngang nó chỉ vừa bàn chân bước đi, nhưng rất cần thiết, nhất là lúc khoang ghe chở đầy
hàng hóa. Be ghe rất cần thiết; nó còn là đoạn đường nhanh chóng từ sau lái lên trước mũi và
ngược lại, và là hai lối đi duy nhất khi lòng ghe chứa đầy hàng.
Tôi nhìn cái lối đi bên trên thành ghe; nó vừa hẹp và vừa dốc xéo từ phòng lái lên trên mũi
ghe, sao… thấy ái ngại quá!
Đi trên be ghe có khó và nguy hiểm, nhất là lúc ghe đang chạy. Nhằm lúc sóng nhồi lắc
chiếc ghe và mặt gỗ bị ướt, rất dễ bị trợt chân rơi xuống nước. Để nhẹ ghe tàu và tiết kiệm
tiền bạc, cánh quạt của ghe tàu trên sông đều để trần, không có khung sắt bao che chi cả.
Cho nên, trợt chân rớt xuống, trong khi ghe đang chạy, sẽ bị dòng nước cuốn hút ngay vào cái
cánh quạt đang quay chém vùn vụt bên dưới lườn ghe; rất nguy hiểm cho tính mạng.
Dân vùng sông nước, sống theo ghe tàu, thì ai cũng đều phải biết và đã quen đi trên be
ghe từ lúc còn trẻ nhỏ. Để không bị dân chúng và công an nghi ngờ, việc trước mắt đó là:
bằng mọi cách, tôi phải tập đi trên be ghe, sao cho giống như dân đi ghe, chuyên sống theo
ghe thuyền…
Tiếp sau đoạn giữa, dành để chất hàng hóa cần vận chuyển, các khoang ghe phía sau
được lót ván che kín, làm thành sàn gỗ để nằm hay ngồi. Dưới sàn gỗ là hầm máy, nơi đặt
động cơ của ghe. Cho nên các miếng ván lót sàn này chỉ gác cho nằm lên khung đà; khi cần
thì dỡ lên cho trống chỗ, để tuột xuống bên dưới mà kiểm và chăm sóc động cơ. Bên trên sàn
gỗ có vách và nóc, giống như một căn phòng nhỏ, thường được gọi là mui ghe.
Mui ghe giống như cái hộp bằng gỗ; nhưng là căn nhà yêu quý trên sông nước của người
sống theo ghe. Mui được ngăn ra hai phần riêng biệt, có cửa kéo ngang cho gọn và sạch.
Ngăn nhỏ ở cận sau mui, làm nơi nấu ăn. Khu vực ở phía trước, là nơi chứa quần áo, vật
dụng sinh sống, chỗ ăn và cũng là chỗ ngủ. Hai bên vách của mui ghe, có khung cửa sổ nhỏ,
để thêm chút ánh sáng và gió mát khi cần.
Phía sau và trước mui đều có cửa, để chui người ra phía sau lái, hay tuột xuống khoang
chứa hàng hoá đàng trước. Chỗ cao nhất trong mui ghe chỉ vừa cho ngồi, hay cong lưng và
rùn chân mà đi lom khom. Thực ra, bên trong cái khung gỗ có diện tích cỡ ba mét vuông như
thế này, thì không cần phải đi; chỉ cần lết người, chồm tới lui, hay vói tay qua lại, là có thể lấy
được vật dụng khi cần.
Nóc mui có chừa một khoảng trống hình chữ nhật, có nắp đậy lại cho kín đáo, nhất là lúc
có mưa gió. Khi đứng trên hầm máy, thân người từ ngực trở lên sẽ ló qua bên trên nóc mui;
dễ dàng xoay trở để nhìn quanh mình, hay rút người mà leo lên trên mui.
Chiếc ghe thuộc loại chuyên chở hàng trong sông, hay ven bờ biển. Mũi và thân ghe có
hình dạng tròn bầu, để chứa được nhiều hàng hoá. Thế nhưng kiểu ghe này cản sóng lắm;
nên dễ bị sóng đập bung vỡ ra, khó lướt nhanh và không an toàn ngoài biển khơi.
Với cấu trúc như thế, chiếc 3392 chỉ thích hợp để vận chuyển hàng hóa trong sông hay
ven biển; nơi có sóng ít, gió nhẹ mà thôi!
Vũ bước đến đưa bao thuốc hút cho tôi:
– Mày thấy sao?!
Lấy điếu thuốc, tôi cám ơn Vũ, gật gù:
– Ngon lành. Không phải loại ghe đi biển, nên nó ít bị để ý. Có chiếc ghe như thế này là quá
tốt rồi…
Vũ nhìn tôi, hỏi nhỏ:
– Sao? … Có muốn theo tao?
Quá bất ngờ, tôi ngập ngừng:
– Muốn chứ!… Nhưng… mày có dám chứa tao không? … thằng tù “cải tạo,” còn bị “quản
chế,” không giấy tờ rời nhà hợp pháp?
– Sợ gì mậy?!…
Rồi Vũ hạ giọng nói nhỏ với tôi:
– Vài tuần nữa, ghe sẽ xuống nước…. Tao cho mày hay…
Tôi lặng người, không biết phải nói sao!
. . .
Tình người, con thuyền mãi mãi lưu luyến bến bờ!
Ra đi tìm tự do là ước mơ của tôi; của hàng triệu người dân trong chế độ cai trị hiện nay.
Nhưng ra đi cũng là bỏ lại gia đình thân quyến, bỏ cả quê hương; không sao vẹn tròn nghĩa
tình.
Sông nước bao la, biển khơi nghìn trùng.
Thuyền đời đưa người viễn xứ mơ bến, biết đến nơi đâu!
Ước mơ có điều kiện để trốn đi, bây giờ thành sự thật.
Sự thật đến thật đột ngột.
Tất cả quá ngỡ ngàng…
Một khúc quanh bất ngờ!
Một đoạn đời của tôi từ nay gắn liền theo chiếc ghe mang số 3392…
(Kế tiếp: Chương 4 – Cuộc Đời)
Bùi Đức Tính