“Vâng… ý em là hầu hết mọi người đều tưởng tượng ngôi nhà của mình thế nào. Chẳng hạn một ngày, họ leo lên cầu thang trước giờ không chú ý đến. Sau đó mở cửa ra, bỗng nhiên, trước mặt họ xuất hiện một căn phòng lớn, họ không biết rằng nhà mình còn có một căn phòng như thế! Anh từng có suy nghĩ này không?”.
“Ừm, nghe em nói thế, anh lại thấy rất quen thuộc”. “Đấy chính là điều mà em quan sát thấy: có nửa số người đều nghĩ thế quả thật rất tuyệt! Giờ lại phát giác một nơi mới! Đấy chính là điều em muốn, vấn đề trong nhà không có phòng giải trí được giải quyết xong. Nửa số người khác sẽ nghĩ, xem ra chỗ này hơn một năm chưa quét dọn rồi, giờ chỉ có thể thấy chút ánh sáng chiếu rọi từ nóc nhà”.
Dun gật gù.
“Anh thuộc nhóm người nào?”, Pauline hỏi. “Anh ư?”.
“Anh xem căn phòng như thế là một món quà hay một gánh nặng? Em thấy vấn đề này rất thú vị, anh thấy sao?”.
Lúc này cô phục vụ đặt đĩa trước mặt họ: “Hai vị còn cần gì khác nữa không ạ?”.
“Không, tạm thời không cần, ồ”, Dun nói với Pauline, “còn em?”.
“Không, cám ơn”, Pauline nói với cô phục vụ. “Dun, không sao đâu, nó chẳng có câu trả lời đúng hay sai, chỉ là một bài trắc nghiệm thôi, anh hiểu không? Em chỉ trắc nghiệm xem anh thuộc mẫu người nào thôi”.
“Ồ, thực tế, anh không biết mình có từng có suy nghĩ này không, thế nên…”.
Pauline “Ồ” một tiếng. “Vấn đề này rất thú vị”.
Dun nói xong, lấy dao cắt miếng thịt bò. Pauline di chuyển giá nến một chút, để ánh sáng sáng hơn. “Anh biết không, nếu là em, em thấy nên thế này: trời ạ, một căn phòng mới! Một phát giác vĩ đại! Nhưng chồng em, chắc chắn không thế… tất cả mơ ước của anh ấy là, có thể tìm được cả tầng lầu. Như thế, anh ấy sẽ biến căn nhà thành kiểu nhà nông trại, dưới đất khắp nơi đều là bùn đất, nước, trong đó còn có rắn bơi qua bơi lại”.
“Sao anh ấy lại có suy nghĩ như thế?”, Dun hỏi. “Ơ? Ồ, đấy chính là giấc mơ của anh ấy!”.
“Anh ấy gặp vấn đề à?”. “Sao? Vấn đề gì?”.
“Chồng em, ý anh là chồng em mới qua đời sao?”.
“Ồ, không, anh ấy không qua đời. Vợ chồng em ly hôn”. Pauline trả lời.
“Ồ, anh hiểu rồi”.
“Tụi em chia tay 13 năm rồi”. Pauline nói. “Anh rất tiếc”. Dun nói với Pauline.
“Không, anh không cần phải an ủi em. Em không sao đâu”. Nói xong Pauline liền xắn một miếng bánh kem thịt cua. Thế rồi bà nói giọng dịu dàng: “Tụi em chia tay trong hòa bình và rất thân thiện, không cãi nhau hoặc đưa ra tòa rùm beng”.
“Ừm, nhưng đấy là chuyện làm ta đau khổ. Anh không dám tưởng tượng, nếu Mattie đề nghị ly hôn với anh, anh sẽ làm gì. Em có thể tin được không, tụi anh chưa từng cãi nhau lớn tiếng. Ý anh là, tuy tụi anh không thường thống nhất ý kiến, ví dụ như cô ấy thích chỉnh nhiệt độ cao hơn, còn anh đã vã mồ hôi rồi; hoặc cô ấy thích đến những vũ hội náo nhiệt, còn anh thích yên tĩnh. Nhưng tụi anh chẳng bao giờ vì thế mà cãi nhau, cũng chưa bao giờ hối hận vì đã chọn đối phương. Anh nghĩ chắc mình là một người đàn ông hạnh phúc, và thực tế, anh nghĩ mình được như thế”.
“Phải”, Pauline nói, “quả thật anh rất may mắn, nhưng không phải mọi người đều có thể may mắn như anh”.
Bỗng nhiên, Pauline thấy mình đang bị vây bủa bởi một bầu không khí trầm buồn mãnh liệt, tựa như một màn sương mù dày đặc lặng lẽ bao trùm cả căn phòng.
Bỗng nhiên trong nhà hàng vang lên một tiếng động lớn làm Pauline tỉnh người. Không gian chợt huyên náo, tiếp theo là tiếng loảng xoảng. Được thức tỉnh vào lúc này quả là rất tốt. Pauline ngồi thẳng người lên, nhìn qua vai Dun hướng về trước quầy bar, cô gái phục vụ cho họ lúc nãy đang từ đánh vào mặt mình, trước mặt là đống đĩa vỡ. “Thượng đế ơi!”, Dun nói, nhưng Pauline lại la lên: “Đừng quay đầu nhìn”.
“Sao?”.
“Con gái Karen của em từng là nhân viên phục vụ nhà hàng để chi trả tiền học phí trường Luật. Nó bảo khi vào nhà hàng dùng bữa, nếu tình cờ gặp ai đó đánh vỡ ly tách bát đĩa, thì đừng nhìn họ, hãy cứ vờ như không có chuyện này vậy. Chà, cô bé tội nghiệp, chắc sẽ bị phạt đây!”.
“Anh còn tưởng thứ gì nổ tung chứ”. Dun vừa nói vừa chuyển sự chú ý về đĩa thịt bò của mình. Ông lại cắt một miếng cho mình và sau lưng ông, cô phục vụ đang vén váy ngồi xuống dọn chỗ ly vỡ vào mâm. Pauline háo hức chờ mọi chuyện xảy ra, còn Dun lại nhìn bà. Lúc này Pauline thấy có một tách cà phê trắng ở giữa lối đi. Dun chợt hỏi: “Em có đứa con gái làm luật sư ư?”.
“Vâng”. Pauline trả lời. Tách cà phê trắng vẫn nằm ở giữa lối đi, trong căn phòng mờ tối phát ra ánh sáng yếu ớt. Nhìn từ góc độ này, chiếc tách trông không bị vỡ, cứ như có ai cố tình đặt nó ở đó. Pauline đang suy nghĩ có nên nói với cô phục vụ nơi đó còn một chiếc tách không, nhưng lại lo cô ta cho mình là nhiều chuyện. Thế là, bà ép mình chuyển ánh mắt sang Dun, “Anh dám cá, chắc chắn em rất tự hào về con gái”.
“Tự hào?”.
“Nhà mình có một luật sư mà!”.
“Ồ, phải, nhưng anh không bao giờ biết nó là người của gia đình em, nó đổi họ thành Antonczyk”.
“Sao con bé lại làm thế?”. Dun dừng lại hỏi.
“Chắc đấy là một thách thức!”. Pauline nói, “Đó là họ bên chồng em, có thể là hai hay ba đời trước, về sau, họ giản lược thành Anton, em chẳng biết từ khi nào con bé đổi tên cho mình, có thể gọi đây là sự truy tìm ngọn nguồn chăng. Karen là thế, chỉ biết nghĩ cho bản thân”.
“Một đứa cháu của Mattie cũng thế”. Dun nói. “Thật sao?”.
“Thật, nhưng nó chỉ đổi tên, từ Peter thành Rock”. Pauline nghĩ một lúc.
“Nguyên nhân đổi tên của nó cũng giống con gái em, còn bảo thế này nghe mốt hơn. Anh không biết, tóm lại, người trong gia đình đều rất buồn, Mattie bảo rồi sẽ có ngày nó đổi lại tên cũ. Về sau, trong đám tang của Mattie, nó nói với anh, giờ nó đã muốn đổi lại tên cũ, dì Mattie nói đúng. Họ đều tin cô ấy, cô ấy chẳng bao giờ quên sinh nhật chúc mừng, Mọi ngày lễ cô ấy đều gởi thiệp cho họ, Giáng sinh, Phục sinh, Lễ tình nhân, Lễ tạ ơn, thậm chí cả Lễ quốc tế lao động”.
Lúc này, ánh mắt của Pauline lướt qua Dun, bà thấy một đôi vợ chồng già bước vào nhà hàng. Họ dừng lại ở chỗ quầy bar, cô phục vụ lúc nãy đã không còn ở đó. Họ nhìn nhau, người chồng đi lên trước vài bước rồi quay đầu nhìn vợ. Vợ ông trông có vẻ do dự. Trong tay người chồng cầm một chiếc nón nỉ. Khi đi vào nhà hàng, ông hồi hộp xoay chuyển vành mũ và sau lưng ông, người vợ cẩn thận bước đi. Người đàn ông tăng nhanh tốc độ, hình như ông đã chọn bàn sau lưng Pauline nên nhắm thẳng mục tiêu rảo bước nhanh, kết quả đạp phải chiếc tách cà phê màu trắng. Xoảng! Món đồ bằng sứ vỡ tan tành, nắp tách cà phê xoay vòng trên mặt đất phát ra tiếng lanh lảnh tựa như tiếng kim loại va vào nhau.
Nghe tiếng động, cô phục vụ chạy vội đến. Hai vợ chồng già đứng sửng người, tiếp đó, họ ngồi vào bàn của mình. Mặt người chồng đầy vẻ ngờ vực: sao lại xảy ra chuyện xui xẻo này chứ! Vẻ mặt đó làm Pauline thấy buồn cười, nhưng bà cố gắng giữ bình tĩnh, dùng tay bịt lấy miệng. Pauline thấy mình bất lực biết bao, giọng bà khàn khàn, tiếp theo đó, nước mắt chảy ra. Lúc tách cà phê vừa bị dẫm phải, Dun cũng cười một cái. Nhưng sau đó ông nhìn thẳng phía trước, cứ như không chú ý thấy Pauline đang khóc. Có lẽ, không phải ông vô tâm, mà cố tình làm thế để bà bớt ngượng ngùng. Dun lại bắt đầu nói chuyện: “Thậm chí ngày Lễ lao động, anh cũng chẳng biết vào hôm ấy mình sẽ phải làm những gì. Trước đây, mọi người thường treo lẳng hoa trên nắm đấm cửa, Mattie luôn làm thế. Cô ấy luôn mua về một đống giỏ mây nhỏ xinh đẹp, sau đó cắm hoa lên đấy. Lễ 1/5 năm nay, chắc anh buồn chết được”.
Cuối cùng Pauline cũng bình tĩnh lại: “Chắc sẽ rất khó khăn với anh, chị ấy không ở đây em cũng thấy rất buồn”. Sau đó Pauline lại nói những lời an ủi Dun, nhưng ý nghĩ của bà lại quay cuồng ở một nơi khác, bà lau nước mắt, gấp khăn tay lại, bắt đầu từ từ ăn món bánh kem thịt cua, cải bắp và đậu.
Lúc Dun tiễn Pauline đến cửa nhà, bà mời ông vào nhà ngồi chơi. Thực tế, Pauline rất sợ vào căn nhà trống trải này một mình. Bà bèn nói với Dun: “Anh vào nhà chơi chút nhé? Nhà em vẫn còn một ít bột cacao”. Pauline đoán chắc Dun thích uống thứ này.
“Bột cacao?”, ông nói: “Loại xay bằng tay sao?”.
“Vâng, hoàn toàn bằng thủ công”.
Thật ra bột cacao trong nhà là loại tan nhanh, nhưng ông sẽ chẳng nhận ra đâu.
Pauline mời Dun vào ngồi trên ghế salon ở phòng khách, chờ sau khi ông cởi bỏ áo khoác, bà mang đến cho ông một tách cacao, sau đó cũng ngồi vào salon. Pauline chẳng có chút hứng thú gì với Dun, hơn nữa, nếu ông muốn ngồi gần hơn, có lẽ bà sẽ thấy rất phản cảm. Lúc này, nếp nhăn trên mặt Dun làm Pauline chẳng muốn nói chuyện chút nào. Dù thế, bà vẫn tỏ ra vui vẻ: “Thú vị thật! Lâu rồi không vui như thế!”. Dun đưa tách cho Pauline, bảo mình không nên ở lại muộn. Pauline nói: “Anh có nhớ bài hát đó không? Hình như nó có tên là ‘Hạnh phúc chán chường’! Hình như thế. Thời gian em và chồng cũ yêu nhau, em luôn nhớ đến bài hát đó. Tụi em bắt đầu buổi hẹn hò bằng nụ hôn, sau đó trò chuyện cho đến khi cả hai đều buồn ngủ! Trời ạ, chắc anh tưởng tượng được chứ? Dù nói bao lâu, hình như chúng em cũng không nói hết được… Thế nên khi thấy rất nhiều đôi vợ chồng không chúc nhau ngủ ngon, em đều nghĩ đến bài hát này. Anh biết bài đó chứ?”.
“Phải, dĩ nhiên”. Dun trả lời: “Anh nhớ rất rõ”. Nhưng ông vừa nói vừa mặc áo khoác chuẩn bị ra về.
Pauline gọi điện đến ký túc xá của Pagan. Giờ chỉ mới 9 giờ, với Pagan, buổi tối như vừa mới bắt đầu, nhưng người nghe máy là một cậu bé khác. Nghe Pauline bảo muốn gặp Pagan, cậu bé này liền gọi to với giọng khàn: “Anton? Anton? Điện thoại!”. Một lúc sau, nó nói với Pauline: “Xin lỗi, chắc cậu ấy ra ngoài rồi ạ!”.
“Được, cám ơn”. Pauline nói, “Khi nào nó về, nhờ cháu nhắn giúp với nó có bà ngoại gọi điện tìm. Chẳng có gì đặc biệt, bà chỉ muốn trò chuyện với nó thôi”. Pauline thấy khả năng Pagan nhận được lời nhắn này rất thấp, nhưng bà vẫn nhắn lại. Phải biết rằng, Pauline chẳng chịu nổi nơi Pagan ở, nam nữ sống chung một chỗ, hành lang luôn phát ra tiếng nhạc đinh tai. Nhưng Pagan lại rất vui khi được ở đó.
Sau đó, Pauline lại gọi cho Katie để cám ơn bà đã chiêu đãi lúc trưa. Thật ra, đây chỉ là cái cớ để Pauline tìm ai đó trò chuyện. Katie nói: “Ồ, đừng khách sáo thế… Sao anh yêu? Pauline gọi đến”. Nghe thế, Pauline biết điều vội kết thúc câu chuyện ngay. Thiệt tình, Katie thậm chí chẳng hỏi xem buổi hẹn hò của bà thế nào.
Pauline lại gọi cho Wanda. Bà đang nghĩ, mình có thể nói với Wanda về Marilyn: giờ tình hình Marilyn sao rồi? Tại sao bà ấy vẫn trông có vẻ ốm yếu thế? Chắc giờ đã khỏe hơn nhiều rồi chứ? Nhưng điện thoại reo mười tiếng, vẫn chẳng ai nghe máy. Chắc bà đến nhà con gái rồi, Wanda rất gần gũi với con mình.
Rất nhiều năm trước, khi bác sĩ vật lý trị liệu của Michael đã giúp ông tập vận động chân, ông từng nói với Pauline thà mình mắc chứng bệnh nan y, như thế ông sẽ vui hơn, vì ông chẳng cần phải tập luyện gì cả. Pauline rất bất mãn với suy nghĩ này. “Sao anh lại có suy nghĩ thế chứ!”, bà nói với Michael. Nhưng Michael lại nói: “Hơn nữa, anh có thể thoát khỏi mọi buổi tiệc cocktail, dạ hội, những lần viếng thăm không ngừng nghỉ của những người nhàm chán! Như thế, anh có thể sống khép mình lại, mà cũng chẳng ai trách vì anh làm thế”.
“Thật không thể tưởng tượng!”. Pauline nói với Michael, “Nếu là em, em tuyệt đối không làm thế! Em sẽ cố gắng tận dụng thời gian còn lại, em sẽ khiêu vũ đến sáng! Em sẽ nói chuyện với tất cả mọi người!”.
Đúng, họ khác nhau thế đấy. Nhưng kết quả lại trái ngược hẳn, Pauline lại sống một mình, còn Michael lại vui vẻ xây dựng một gia đình khác, quả thật không công bằng.
Nhưng Karen từng tuyên bố với giọng điệu nửa đùa nửa thật rằng: “Nhìn bố mẹ xem! Bố mẹ ngồi bên bàn ăn trong bếp làm dự toán gia đình trong tháng này, tính toán tiền gas, phân loại các phiếu rửa xe miễn phí và phiếu giảm giá giặt thảm. Hai người chẳng khác gì tạc ra từ một khuôn”.
Pauline đi một vòng trong nhà, tắt tất cả đèn. Bà trở vào phòng ngủ kéo cửa chớp rồi thay áo ngủ. Bà mừng rỡ phát hiện trong phòng tắm lại có nước nóng. Có lẽ, bà nên thử kem dưỡng da mới mua.
Bà đưa tay lấy cuốn tạp chí xem một nửa tối qua rồi lật ra, gì đây? Một bài viết hướng dẫn cách sắp xếp thời gian. Ồ, phải, hôm qua mình xem đến đây. Bài viết này làm bà đọc thấy buồn ngủ, chẳng có gì lạ, vấn đề của bà bây giờ là làm cách nào giết thời gian. Bà lật qua trang sau, mấy trang tiếp theo đều là quảng cáo nước hoa dành cho nữ, vớ da giúp giảm cân đẹp dáng. Bà thấy mắt mình rất nặng nề. Một người đàn ông mặc bộ com lê dạ tiệc đang đeo chuỗi ngọc trai lên chiếc cổ trần của người phụ nữ xinh đẹp; một nhà dinh dưỡng học nổi tiếng cho rằng: trong rất nhiều thực phẩm đều ẩn chứa lượng calo rất cao, chẳng hạn trong sốt xà lách, bột yến mạch… bột yến mạch được gọi là dinh dưỡng…
Đến khi bà tỉnh giấc, trời ạ, đã sáng rồi? Không, không phải trời sáng, đó là ánh đèn. Bà thở dài, đi tắt đèn. Pauline nằm dài trên gường, nhưng bà không ngờ mình chẳng ngủ được nữa. Bà giống như một con rối, khi bị đặt ở đó thì nhắm mắt lại, có điều, bà chẳng muốn thế. Nằm trên giường, bà trở nên rất tỉnh táo. Trước đây Pauline từng thử uống thuốc ngủ, nhưng uống rồi bà lại thấy chóng mặt vô cùng, trạng thái đó làm bà bất lực và sợ hãi. Xem ra cứ để tự nhiên sẽ an toàn hơn. Pauline trở người, nằm nghiêng, sau đó lại quay qua bên trái, bà muốn tìm tư thế thích hợp giúp đưa mình vào giấc ngủ dễ dàng hơn.
Những suy tư làm đêm dài hơn. Mọi chuyện cũ bỗng chốc hiện về. Bà đã chọn cách sống sai lầm, làm cuộc sống của mình rối tung lên. Bà đã sai lầm khi lấy Micheal nên giờ bà chẳng biết thay đổi ra sao. Thế là, bà chỉ có thể đi tiếp, cứ như bà đang sống những tháng ngày gian nan tựa như người đàn bà đanh đá khác, chứ không phải là mình. Bà trơ mắt đứng nhìn người mình yêu ra đi. Phải, bà yêu Michael, dù người đàn ông này là lựa chọn đúng hay sai, bà vẫn yêu ông.
Nhưng sao Michael lại rời bỏ bà như thế?
Còn cả Lindy. Làm mẹ, Pauline phải yêu tất cả con mình nhưng bà thấy Lindy là người bà yêu quý nhất. Mỗi khi radio phát những khúc nhạc xưa – “Bạn muốn đến San Francisco không?” – bà đều khóc nhòa cả mắt. Sao bà không thể bảo vệ tốt cho Lindy. Bà không bảo vệ nó, không ôm chặt lấy nó, thậm chí không chờ nó về vào mỗi tối nó ra khỏi nhà. Bà từng rất bất lực, không biết xử lý sự việc này như thế nào, vì thời con gái của bà vừa đơn giản lại an toàn.
Nhưng rất nhiều bậc cha mẹ đều thành công khi xử lý những vấn đề này! Con họ không biến mất như thế.
Trong thời gian mẹ bà bệnh, lẽ ra bà phải giúp bố nhiều hơn mới phải. Sau khi mẹ qua đời, bà nên cùng bố ra ngoài dùng bữa nhiều hơn! Lẽ ra bà phải ân cần chu đáo hơn với những người thân của mình!
Pauline lại nhớ đến mẹ chồng. Đó là người phụ nữ dễ sợ. Bà Anton từng nói với Pauline: “Đừng cắn mẹ như thế, mẹ sẽ trúng gió đấy”. Nhưng Pauline đã cắn bà một cái và nói: “Được thôi. Vậy giờ chúng ta giả thiết mẹ trúng gió rồi, nằm dưới đất không cựa quậy nữa. Vậy mẹ cho con biết, con có thể vứt cuốn tạp chí nào trong số đó?”. Những lần cãi vã xa xưa giờ vang vọng bên tai bà chẳng sót một chữ, Pauline giật mình ngồi phắt dậy, dùng một tay bịt lấy mắt.
Giờ bà chợt nhớ ra người trò chuyện thâu đêm với bà không phải Michael? Phải, không phải Michael, mà là một ai khác, một người con trai bà đã quên tên đã quen trước khi gặp Michael. Thậm chí Pauline chẳng còn nhớ người đó trông thế nào, dĩ nhiên bà cũng hoàn toàn không nhớ nội dung trò chuyện của họ. Điều duy nhất bà xác định được là: hai người đã không ngừng tâm sự với nhau, Pauline không hề cô đơn.
Chương 8
Một buổi sáng âm u và lạnh lẽo vào tháng 2 năm 1990, trời lạnh đến mức đóng băng chỉ trong một đêm.
George đang dọn sạch băng chỗ kính chắn gió của xe. Bỗng nhiên, anh nghe thấy tiếng xe khởi động gần đó. Anh nhìn dãy nhà cổ kính phía sau lưng, trước cửa mỗi nhà đều đậu một hai chiếc xe. Nhưng chiếc xe xả khói đen George chưa từng thấy. Đó là chiếc xe Ford màu trắng, trông rất nặng nề, thân xe rỉ sét, một vài chỗ còn lõm vào, lúc chạy nó còn phát ra tiếng ken két. George quay người, kết thúc công việc, tiện tay vứt cây dao cạo ra hàng ghế sau, ngồi vào tay lái, nổ máy xe, rồi lái xe ra khỏi chỗ đậu. Cả quá trình hầu như không phát ra tiếng động gì lớn. Xe của George hiệu Cadillac. Trong mắt anh, Cadillac là loại xe quý phái duy nhất trên thế giới.
Khi George lái xe đến phía Bắc đường Charles, bỗng nhiên xuất hiện một chiếc xe buýt, anh phải vội đạp thắng ngay. Khi tình cờ nhìn qua kính chiếu hậu bên phải, anh chợt phát hiện chiếc Ford lúc nãy đang ở sau anh. Cửa sổ xe có vết rạn nứt rõ nét, hai bên cửa sổ có ánh phản quang yếu ớt, có lẽ chiếc xe đó đưa người giúp việc đến nhà mình! Cuối cùng chiếc xe buýt cũng nặng nề lướt qua, George lên ga, lái thẳng đến đường Charles.
Văn phòng của George ở Towson, anh là phó chủ tịch của công ty Jennings Jensen nên có chỗ đậu xe riêng. George khóa xe, khi vòng ra cốp lấy chiếc cặp của mình, anh bất ngờ phát hiện chiếc xe Ford đậu cách đó không xa. Chắc là nhầm đường. Đây là bãi đậu xe chuyên dùng của công ty George, xe ngoài không được vào. Chiếc xe đó định quay đầu, còn phát ra tiếng ken két, xem ra nó chuẩn bị hướng về đường York. Phần sau của chiếc Ford vểnh lên, trông rất kỳ quặc. George quay người đi khỏi, nhanh chóng quên đi chuyện này.
Vài hôm sau, George lại thấy chiếc xe Ford đó, lần này nó đậu cách văn phòng anh một con phố. Lúc đó George vừa cùng khách ăn trưa xong. Bất ngờ thấy chiếc xe này ở đây làm George lắp bắp nói không nên lời. Chắc chắn là nó, phần đuôi xe kỳ quặc, cốp xe toàn vết ố rỉ sét, trông bộ dạng như từng gặp tai nạn. Nhưng trong xe chẳng có ai.
Chiều thứ hai sau đó, trên đường về nhà, George lại thấy chiếc xe đó đậu trên đường Greenway, nơi đây cách con phố nhà George khá gần. Lần này, trong xe có người. Thế là, George giảm tốc độ muốn xem cho rõ rốt cuộc tài xế là ai. Tiếc rằng chiếc xe sau không ngừng bấm còi, anh bất lực đành tránh sang làn đường khác. Nhưng anh có nhìn phớt qua, tài xế là phụ nữ, khoảng ngoài 40, trông không giống một người nguy hiểm, nhưng rất lạ. Thật ra, dưới ánh đèn lúc đó, George nhìn không rõ cô ta, hơn nữa, khi anh quan sát xe, mặt người phụ nữ quay sang hướng khác. Nhưng đây là chuyện rất bình thường, chẳng ai thích bị theo dõi cả.
George đậu xe trước cửa nhà, sau khi khóa xe anh lại vòng ra cốp lấy chiếc cặp. Ngay khi chuẩn bị bước vào nhà, anh nghe thấy sau lưng có tiếng thắng xe. Không hiểu sao, George bất giác quay đầu nhìn lại. Nào ngờ một lần nữa anh thấy chiếc Ford đó, lần này nó đang định đậu ngay phía sau xe mình. Thật ra, chỗ đó đủ cho một chiếc xe hơi đậu, nhưng phải cố gắng đến ba lần chiếc Ford mới vào chỗ được, hơn nữa xe còn cách vệ đường đến 2 feet! George đứng ngay đó, tay xách cặp đứng nhìn chằm chằm vào chiếc Ford.
Người phụ nữ trong xe bước xuống, đi thẳng về phía George. Sắc mặt cô nhợt nhạt, ăn mặc xuềnh xoàng: không khoác chống lạnh, mà mặc nhiều lớp áo phối lung tung màu, số áo này kích cỡ bất nhất, trông chẳng chút gọn gàng. Dưới chân cô mang đôi vớ đến gối bằng lông cừu, chân mang đôi giày da nỉ, cách ăn mặc rất giống phong cách Bohemia. Tóc cô đen và thẳng đến vai, George cho rằng người lớn tuổi nếu còn giữ kiểu tóc này quả rất giống phù thủy. Mắt cô màu nâu, rất nhỏ nhưng sáng, tuy đứng cách cô một khoảng, George nhưng vẫn thấy được đôi mắt long lanh đó.
Người phụ nữ dừng lại ở chỗ cách George vài feet, gọi: “George?”.
Bỗng chốc tim anh giật thót. “George Anton?”, cô nói tiếp.
George hít một hơi thật sâu: “Lindy?”.
“Đúng là em rồi!”. Người phụ nữ kêu lên, nhưng dường như cô vẫn chưa xác định người trước mặt mình có phải George không. Cô lại đi về trước vài bước.
Bao lần George đã thầm tưởng tượng cảnh này. Cuối cùng ngày đó cũng đến, anh rất buồn vì giờ mình đã 45 tuổi. Suốt thời gian qua, George đều tưởng tượng dáng vẻ dần già đi của Lindy, nhưng sự tưởng tượng đó rất mơ hồ. Anh chưa từng đoán được rằng mình sẽ gặp Lindy thế này. Một thương nhân thấp người béo tròn, tóc hoa râm, mặc áo khoác nhung màu nâu, tay xách chiếc cặp đứng trước Lindy.
“Chị theo em mấy ngày rồi”, Lindy nói với George: “Mong rằng chị không làm em sợ. Chị nghĩ, chờ đến khi mình có đủ can đảm mới đến gặp em”.
“Can đảm!”. George nói: “Gặp em cũng cần can đảm sao?”.
“Chị thấy tên em trên danh bạ điện thoại”.
Hai tay Lindy nắm chặt lấy xách tay của mình. Đó là chiếc xách tay mà người Mỹ thường dùng, loại túi vải dệt bằng máy. Đúng, quả thật cô rất căng thẳng. “Chị có tìm bố và mẹ”, cô nói, “dĩ nhiên là cả Karen… và cửa hiệu tạp hóa nhà Anton. Nhưng mọi người đâu cả rồi? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.
George đi đến trước Lindy, anh định ôm hoặc hôn nhẹ lên má cô. Nhưng hành động như thế dường như quá thân mật với một người phụ nữ đã lâu không gặp dù người đó là chị mình. Thế là, George nắm tay cô, nói: “Chị vào nhà ngồi chơi chút nhé?”.
Lẽ ra Lindy nên tiếp tục câu hỏi vừa rồi, nhưng lại thôi, có lẽ bản thân Lindy cũng sợ phải đối diện với câu trả lời. Nhằm phá tan bầu không khí im lặng, George cố tình đi chậm hơn thường ngày. Anh dìu Lindy cẩn thận đi qua nền gạch trước cửa bị rễ cây đùn lên. Lúc đi, giày của Lindy phát ra tiếng đặc biệt. Trên người cô cũng phát ra tiếng leng keng, Lindy thích loại trang sức bằng kim loại không mấy quý giá.
Khi George mở cửa, tiếng chuông chống trộm chợt vang lên, âm thanh này làm anh thấy nhẹ cả lòng: Sally và Samantha đều vắng nhà. Thực tế, giờ anh rất cần một không gian yên tĩnh để có thể trò chuyện với Lindy. George đặt chìa khóa trên tủ sách, đi qua phòng khách bấm mật mã, sau đó quay người gọi Lindy: “Chị vào đi”, anh nói, “cần em tìm cho chị chiếc áo khoác không?”.
Lindy không trả lời. Cô đứng đó nhìn quanh nhà George: trên tường treo chiếc thảm thêu George và Sally mang từ Florence về, cửa sổ ô hình cung, cánh cửa thông đến các phòng kiểu Pháp. Trần nhà treo chuỗi đèn hình trụ bằng thủy tinh, rọi ngay trên mái tóc muối tiêu của cô. Dần dần, nét mặt cô dịu đi, mọi góc cạnh sắc bén trên gương mặt đó dường như bỗng chốc bị mài mòn. George cảm thấy Lindy như vừa được bao bọc bởi lớp kẹo mềm. Nhưng giọng cô vẫn cứng thế, ra vẻ “chẳng màng bận tâm”. Từ lúc nhỏ, George đã nhớ rõ đặc trưng này của Lindy. “Chỗ này rất tuyệt!” Lindy nói với George, giọng điệu nghe như oán trách gì đó, George chợt cảm giác rất quen thuộc.
“Chúng ta vào trong tìm chỗ thoải mái ngồi nói chuyện nhé!”, George đề nghị.
George đi phía trước Lindy, mở đèn trong nhà. Lindy theo sau anh, vào phòng khách, cô ngồi phịch xuống ghế salon, George ngồi trên chiếc ghế dựa đối diện cô, chính giữa họ là chiếc bàn kiếng thấp nhỏ. George dựa vai ra sau, như thế trông bụng anh sẽ nhỏ hơn.
Dù thế, Lindy vẫn nói: “Em thay đổi rất nhiều”. “Ồ, phải, em luôn muốn tham gia một…”.
“Em là đứa cuối cùng rời khỏi nhà sao?”, cô hỏi, “Em nói đi, chị phải biết”.
George trả lời: “Không, dĩ nhiên không phải”. “Nhưng trong danh bạ điện thoại…”.
“Ồ, danh bạ điện thoại”, George nói, “Karen đổi họ rồi, Antonczyk, nên chị không tìm thấy tên nó đâu. Còn bố, từ sau khi ly hôn với mẹ…”.
“Ly hôn!”, Lindy kêu lên.
“Từ sau khi bố mẹ ly hôn, bố lại tái hôn, sau đó chuyển đến sống ở nhà vợ, nên trong danh bạ cũng không có…”.
“Thế còn Pagan?”, bỗng nhiên Lindy hỏi. “Pagan rất tốt”.
Mãi đến khi Lindy cuộn tròn vào ghế salon, George mới ý thức được tư thế ngồi của cô là kết quả của việc quá căng thẳng. Lindy nói tiếp: “Nó rất tốt sao? Có khỏe không? Nó sống có vui không? Mọi chuyện đều ổn chứ?”.
“Phải, nó rất ổn. Nhưng, em đang định nói với chị…”. “Bố mẹ nuôi nó sao? Bố mẹ luôn ở bên nó sao?”.
“Ồ, phải, không, ừm… ý em là bố mẹ không luôn ở bên nó, nhưng bố mẹ chăm sóc nó rất tốt. Trong danh bạ, chắc tên bố gắn chung với tên dì Anna, hơn nữa…”.
“Anna Grant? Bạn trung học của mẹ?”. “Em không nghĩ chị biết dì ấy”.
“Hồi còn sống ở St. Cassian, dì ấy có đến thăm chúng ta một lần. Dì ấy còn cho chúng ta một hộp sôcôla con rùa”.
“Em chẳng nhớ gì cả”. George nói.
“Bố mẹ ly hôn vì Anna sao?”.
“Không, không, trời ạ, dĩ nhiên là không, bố mẹ đã ly hôn khoảng 6 – 7 năm trước đó”, George dừng một lúc để suy nghĩ kỹ xem nên nói gì tiếp theo, “phải, còn cửa hiệu tạp hóa nhà Anton, lúc đầu bố chuyển nó đến vùng ngoại ô, hơn nữa đổi cả tên, sau đó, bố lại bán nó cho Công ty Thực phẩm Thế Giới, là chuyện của mấy năm trước rồi…”.
“Bố ghét Công ty Thực phẩm Thế Giới nhất mà! Bố bảo cửa hiệu nhiều chi nhánh sẽ có ngày thiêu cháy chúng ta!”. “… Thế nên giờ chị không tìm thấy cửa hiệu tạp hóa nhà Anton trên danh bạ”, George nói tiếp, “còn mẹ, ừm…”.
Anh nuốt nước bọt.
“Mẹ, ừm, thực sự, mẹ đã qua đời”. George ấp úng.
Nói xong câu này, George cảm thấy bầu không khí giữa mình và Lindy như vỡ vụn. Anh rất hối hận vì mình không tìm được cách biểu đạt thích hợp hơn, chí ít không làm Lindy quá đau buồn. Có lẽ anh nên nói tránh nói giảm, ít ra có thể giúp Lindy tạm thời dịu lòng.
“Mẹ gặp tai nạn giao thông”, George nói, “khi lái xe vào một con đường hoang, đó là năm 1987, tháng 3 năm 1987”.
Lindy nói: “Mẹ chết rồi?”. Cô tròn mắt.
“Lúc đầu cảnh sát cho rằng mẹ say rượu”, George nói, “hoặc thần trí không minh mẫn gì đó. Họ nghĩ người bình thường không thể mắc sai sót này, mãi về sau, chúng em giải thích với cảnh sát cách lái xe trước giờ của mẹ”.
George cười nhẹ một cái, nhưng Lindy chẳng có chút phản ứng.
“Vậy Pagan, em bảo Pagan rất ổn, đúng không?”, cô hỏi khẽ.
“Phải, Pagan rất ổn, Lindy”.
Trong lời nói của George lộ vẻ mất nhẫn nại. Lindy liếc nhìn anh một cái, ánh mắt vẻ nghiêm nghị. George hoảng loạn cúi đầu, hạ thấp giọng như biện minh: “Giờ chị mới quan tâm mấy chuyện này, muộn quá rồi!”.
Lindy cứ thế nhìn George.
“Em thấy thế”. Một lúc sau, George nói tiếp.
Lindy mở xách tay của mình ra, lục tìm gì đó. Cô lấy ra một chiếc ví da cong, một chùm chìa khóa xâu trên sợi dây đỏ và một mảnh báo cắt xếp nhỏ như tấm danh thiếp.
George nghĩ thầm: đây là chị Lindy thật sự sao, người chị suốt bao năm qua mất tích đấy ư? Giờ chị ấy mang đôi giày da màu nâu đế nỉ, trên một chiếc giày còn dính vài lá cây màu nâu li ti. Chị ấy lái chiếc xe Ford những năm 60, một gút trên áo buộc bằng chỉ.
Lindy mở mảnh báo cắt rồi bắt đầu đọc, George thấy mình bị bao trùm bởi một bầu không khí ngột ngạt.
“Đây rồi”, Lindy nói và đưa mảnh báo cho George. George thấy trên báo có một tấm ảnh đen trắng mờ mờ, trong ảnh có hai người đàn ông, một người rất lớn tuổi có râu, người kia rất trẻ. Nhìn một lúc, George mới nhận ra người thanh niên trẻ chính là Pagan. Bên dưới tấm ảnh là dòng chữ:
Tiến sĩ William Gramble nhà tâm lý học và Pagan Anton, người bảo vệ cho trẻ em và gia đình đang tiến hành thảo luận điểm lợi và hại của bản dự thảo lập pháp hiện nay.
“Em có chú ý thấy cách sắp xếp câu không?” Lindy hỏi. “Cách sắp xếp câu?”, George không hiểu.
Lindy gật gù, mỉm cười.
“Ừm”, George nói: “phải, em nghĩ, Pagan chắc chỉ mới 25 tuổi…”.
“Ý chị là cách họ ngắt câu, có lẽ chỗ này nên có một dấu chấm phẩy, như thế đọc cứ như họ nói Pagan là đứa con mãi mãi vậy, em không thấy thế sao?”.
Lindy cười ra tiếng, rồi đưa tay lấy mảnh báo. Thật ra, George vẫn chưa đọc xong nội dung bài viết, nhưng anh có cảm giác như Lindy muốn lấy lại tờ báo, anh bèn đưa nó lại cho cô.
“Chị thấy bài báo này trên bàn”, Lindy nói, “thế giới quả thật lạ kỳ, đúng không? Suốt bao năm nay chị luôn nhớ nó và cố gắng quên nó đi… Ôi, dĩ nhiên lúc đầu không phải thế, mãi đến khi chị tồi tệ hẳn đi. Rồi sau đó, chị chẳng nhớ gì cả, nhưng chị biết, sau khi chị kết hôn,… bản thân anh ấy có hai đứa con, lúc bọn chị quen nhau khi chị vẫn ở trong công xã. Chắc em chưa nghe nói đến công xã, nhưng chị đã phục hồi ở nơi đó. Henry đến đấy tổ chức một hội thơ, lúc đó anh ấy là thầy giáo trung học dạy tiếng Anh, giờ tụi chị sống ở Loudoun County”.
“Loudoun County? Ở Virginia?”, George hỏi.
Lindy gật đầu: “Phải, năm ngoái bọn chị chuyển đến đó. Ồ, trời ạ, em biết không, mọi chuyện đều là sự trùng hợp. Một cơ hội làm việc ngẫu nhiên, giờ đây, con của Henry đều lớn cả rồi… Nhưng điều chị muốn nói là, anh ấy có hai đứa con, một đứa 6 tuổi và một đứa 9 tuổi. Lúc đầu, chị biết, chúng chỉ là gánh nặng với chị thôi. Nhưng dần dà, chị thấy mình thích chúng và… bắt đầu yêu chúng. Điều thú vị là: ngay khi mọi chuyện vừa mới bắt đầu, ngay khi chị nảy sinh tình cảm với hai đứa bé không có quan hệ máu mủ, chị chợt thấy mình ngày càng nhớ Pagan. Chị nhớ nó da diết! Chị tưởng mình sắp chết, mấy đứa trẻ càng làm chị nhớ Pagan điên cuồng. Phải, chị biết mình không có quyền làm thế, giờ nó đã có cuộc sống riêng. Chị thề chị sẽ không đến gần nó, nhưng…”.
Nói đến đây, Lindy bỗng nhiên quay đầu nhìn chằm chằm chiếc đèn sứ bên trái mình. Lúc đầu, George tưởng chiếc đèn làm cô chú ý, về sau anh mới ý thức được Lindy đang lau nước mắt. Sau vài phút im lặng nặng nề, Lindy quay sang nói với George: “Sau đó chị tìm thấy bài viết này”.
“Em hiểu”. George nói.
“Chị đang dọn bàn cho Henry để chơi bài một mình. Lúc đó trên bàn có một số bài báo cắt ra liên quan đến giáo dục. Chị nhét chúng vào ngăn kéo của Henry, kết quả chị thấy cái tên Pagan Anton trên một bài báo”.
Lúc nhắc đến tên Pagan Anton, Lindy nói rất chậm và rõ để bày tỏ sự chú tâm của mình. George hắng giọng.
“Ngay khoảnh khắc nhìn thấy tên nó, chị tưởng là mình hoa mắt, chị tưởng mình đang mơ. Nhưng nhìn tấm ảnh đăng kèm, chị biết đó chính là Pagan – chỉ nó mới có mái tóc kiểu Mexico, giống hệt như bố nó. Chị hỏi Henry ở đâu có bài báo này, nhưng anh ấy bảo không biết, hiệu trưởng ở trường đưa cho anh, trong một tập hồ sơ. Chị lại đọc kỹ bài báo, nhưng chẳng chút manh mối. Lúc đó chị nói: ‘Pagan là người bảo vệ trẻ nhỏ và gia đình! Sao thế được, em không tin. Người làm trong tổ chức đó có xuất hiện trên trang vàng không?’. Vì dạo trước, chị thử tìm tên nó trên trang vàng của Baltimore. Trời ạ! Chị hệt như một bà điên! Nhưng, chị lại tìm thấy em, không phải Karen, không phải mẹ hoặc bố…”.
Lindy lại rưng rưng nước mắt, nhưng lần này cô không ngoảnh mặt đi, mà nhìn thẳng George. “Trong mắt chị, gia đình vẫn như lúc chị bỏ đi”, cô nói, “mẹ vẫn mặc chiếc váy ngắn, bố cả ngày như có thù oán với máy cắt cỏ, còn em và Karen vẫn là hai đứa bé”.
“Pagan vẫn còn ở Baltimore”. George buột miệng nói. Lindy yên lặng nhưng kiên định nhìn anh.
“Vì Pagan sống trong trường nơi nó làm việc, nên tên nó không nằm trong danh bạ. Nó mở lớp âm nhạc thực nghiệm cho trẻ em mắc chứng tự kỷ. Nó kết hôn rồi, với cô bạn gái Gina thời đại học, hơn nữa, chúng đã có một đứa con”.
“Chị làm bà rồi!”. Lindy nói, “Vậy, nó có hận chị không?”. Nói xong, cô dừng lại một lúc.
“Nó chưa một lần nhắc đến chị”. George nói.
George dường như ý thức được cách nói của mình quả thật làm Lindy tổn thương, thế nên anh vội bổ sung: “Thật ra, em cũng không rõ lắm, ai mà biết được chứ? Lúc đó nó còn rất nhỏ, em không chắc nó còn nhớ chị không, hoặc, có lẽ… nó vẫn còn nhớ”. George lại tiếp: “Khi bố mẹ đón nó về, họ chẳng nói gì với nó… nó là đứa trẻ rất… rất yên tĩnh, thuộc mẫu người kiệm lời cũng chẳng mấy khi nghe người khác nói”.
Những đứa trẻ mắc chứng tự kỷ? Thực tế, George luôn nghĩ đó chính là một nghề chẳng ra gì, chí ít chẳng phải công việc tốt.
“Nhưng dần dà Pagan cũng ngoan hơn, chẳng hạn như nó thường cùng mẹ…”. George nói, “em nhớ lúc đầu, nó hoàn toàn ngó lơ sự tồn tại của mẹ, nhưng về sau, mỗi lần mẹ rời khỏi nhà, nó đều rất buồn, khi mẹ về, nó liền tỏ ra rất thoải mái”.
“Rồi nó dần thích ứng?”.
“Ồ, phải! Từ từ, nó thích ứng với cuộc sống của nó, sau đó, trở thành một đứa bé bình thường”.
Dù George chẳng biết giải thích chuyện này thế nào, nhưng anh vẫn tiếp tục nói: “Việc duy nhất em không thể xác định là: nó có nhớ chị hay không. Vì thỉnh thoảng, dường như em có cảm giác… ừm, em xin lỗi nói thế, thực tế…”.
Sao George lại nói thế? Nhưng dường như anh phải có một kết luận cho đề tài mình nêu ra: “Em luôn cảm thấy, dường như nó không muốn một ai nhắc đến chị, dường như nó đưa ra lệnh cấm vô hình cho mọi người, tuy thỉnh thoảng em không biết tại sao nó làm thế”.
George nói xong, lén nhìn Lindy một cái, cô không khóc nữa mà yên lặng nghe anh nói. “Dĩ nhiên, rất có thể mọi chuyện chỉ là sự ngộ nhận của em”. George bổ sung.
Lindy tỏ ra bất lực: “Chị không biết mình mong muốn chuyện gì: muốn nó nhớ chị, hay muốn nó quên hẳn chị đi. Mẹ con chị từng gần gũi thế, cùng làm mọi việc! Mẹ con chị từng có nhau thế, nhưng một khi…”.
Cô lại nhìn chiếc đèn sứ đó, lần này lâu hơn. “Một khi chị bỏ lại nó trên cầu thang…”.
“Ôi, được rồi, được rồi, chị yêu”. George đổi tư thế ngồi trên ghế, “Trời ạ, em biết chị cũng chẳng dễ dàng gì… Ôi, tại sao, sao lại xảy ra chuyện thế này! Trời ạ, dù thế nào, bỏ đi…”.
“Em sao rồi George?”, Lindy hỏi. “Em ư?”.
“Em kết hôn chưa? Em có con không?”.
“A? Dĩ nhiên là rồi, Sally sẽ về ngay thôi, phải, cô ấy sẽ về ngay”. George mong mau kết thúc cuộc chuyện trò này. Anh thấy mình và Lindy đã có đủ thời gian bên nhau. “Tụi em có một đứa con trai, nó ở Princeton; và một cô con gái đang học trung học. Hiện em làm phó chủ tịch một công ty, chuyên giúp các công ty khác sát hợp, chỉ là công việc làm ăn nhỏ thôi”.
“Giúp công ty khác sát hợp”. Lindy lặp lại lần nữa. George nhìn cô, nhưng Lindy hầu như chỉ muốn nhớ lấy cụm từ này, chứ không có ý gì khác. “Hồi nhỏ em từng làm mô hình máy bay bằng giấy”. Lindy nói với George.
George cười: “Lâu rồi em không làm”.
“Thế còn Karen? Con bé kết hôn rồi chứ?”.
“Không. Nó là một luật sư thành công đấy! Hình như Karen đang phụ trách những vụ kiện liên quan đến người không có nhà ở…”.
Thực tế, George luôn mong lời mình nói có thể thu hút sự chú ý của Lindy. Anh luôn cố gắng nhắc nhở Lindy, thật ra Karen cũng chẳng mấy thành công. Nhưng dường như mặc George nói thế nào, cô đều tỏ vẻ chẳng quan tâm là mấy.
George vẫn chưa nói xong, Lindy chợt lên tiếng: “George, gọi điện thoại giúp chị cho nó được không?”.
Nó là ai, George hỏi.
“Chị xin em!”, Lindy nói: “Nếu nó muốn, nếu nó không phản đối, chị nghĩ mình có thể nói với nó vài câu”.
“Được”. George trả lời.
“Chị rất sợ, chắc nó không gác máy ngay khi nghe thấy giọng chị chứ!”.
George chẳng tìm được lý do gì để từ chối, nhưng trong lòng anh chẳng muốn làm thế chút nào. “Được thôi, Lindy”.
George đứng dậy, nói với Lindy: “Điện thoại trong phòng khách”.
“Ồ”, Lindy gật đầu, nhưng vẫn ngồi trên ghế salon. Sau đó, cô chậm rãi, tựa như một người phụ nữ rất béo tròn, thu dọn xách tay, nhấc người ra khỏi ghế salon, túm chặt những lớp áo. “Chị sợ quá”, cô nói với George, “Làm thế có đường đột lắm không?”.
Anh không trả lời, đưa cô qua sảnh trước.
Đến phòng khách, George mở đèn, Lindy ngồi trên chiếc ghế thuộc da, sau đó anh nhấc ống nghe. Đây là chiếc điện thoại kiểu mới nhất, có chức năng quay số tự động, nhưng George lại mù tịt về mấy chức năng này. Ngược lại, Sally rất thành thạo, thậm chí còn cài đặt sẵn tất cả cho George. Anh chỉ cần nhấn một nút thì có thể gọi điện thoại. Trước mặt Lindy, anh thấy dùng điện thoại như thế cứ như là đang khoe của: nhìn xem, chí ít em có the liên lạc với con chị mà chẳng tốn chút sức lực! Thực tế, người giữ liên lạc thường xuyên với mọi người trong nhà không phải anh mà là Sally. Dù thế nào, điện thoại đã kết nối, hơn nữa chính Pagan nghe máy. George cố gắng làm giọng mình nghe có vẻ thân thiết và tự nhiên. “Chào, Pagan, cậu đây”.
“Cậu George? Chuyện gì thế ạ?”.
Với người nhà Anton, điện thoại luôn hàm nghĩa tin xấu, qua nỗi lo lắng trong giọng nói của Pagan có thể hiểu rõ điều đó. Có lẽ tin Pauline qua đời làm họ có ác cảm với điện thoại. Thế rồi George cố tình giảm chậm tốc độ nói lại: “Ồ, không, không có gì, thật ra cũng chẳng phải chuyện gì to tát. Nói thế dường như chẳng mấy thích hợp, nhưng…”.
George nghe tiếng nhịp tim đập thình thịch của mình. Còn Lindy, ngồi trên ghế siết chặt xách tay, cô trông căng thẳng đến nỗi tay lộ rõ những đường gân xanh.
“… Cậu có chuyện này muốn nói với cháu, có lẽ là cháu sẽ bất ngờ”. George nói tiếp: “Ơ, chắc giờ cháu không đoán được ai đang ngồi đối diện với cậu”.
“Mẹ cháu”. Pagan bình thản nói.
George rất ngạc nhiên: “Sao cháu biết?”. Lindy ngẩng đầu nhìn George.
“Không, cháu không biết”. Pagan trả lời: “Nhưng, ngoài mẹ ra còn ai chứ?”.
“Ồ, phải, đúng thế. Vậy, cháu có muốn nói chuyện với mẹ không?”.
“Vâng”. Pagan trả lời.
George đưa ống nghe cho Lindy, sau đó đứng dậy chuẩn bị ra ngoài. Đến khi anh sắp ra khỏi phòng, Lindy mới nói được một cậu: “Chào con”.
George đi đi lại lại ở hành lang cửa vào một lúc, anh nghe tiếng Lindy vọng ra từ phòng khách: “Ồ, mẹ rất khỏe. Con, con khỏe không?”.
Trở vào phòng khách, George lại ngồi vào chiếc ghế lúc nãy, thừ người nhìn trần nhà. Với George, tất cả đều tựa như một giấc mơ. Anh cố gắng tìm kiếm trong ký ức mình những thông tin liên quan đến Lindy: một cô gái rất gầy, ấn tượng sâu sắc nhất trong anh là đầu gối và cánh tay của Lindy, hoặc chị ấy dùng đầu gối đè lấy và bò qua người anh, hoặc dùng cánh tay chống anh sang một bên, phía dưới đầu gối chị luôn có vết thương. Tóc chị luôn rối nùi, hệt như một đống rơm, dù mẹ có chải thế nào, tóc chị vẫn luôn như thế…
Anh nhớ mình và Lindy luôn giành giật nhau dù đó là thứ gì, một viên kẹo hoặc một cuốn truyện nhỏ. “Chị lấy trước mà!”, lần nào Lindy cũng nói thế, còn George luôn la lên: “Thế là không công bằng!”. Sau đó, mẹ liền quát: “Dừng lại ngay, hai đứa này!”. Dường như anh lại thấy Lindy chơi trò thảy gạch trên vỉa hè trước cửa hiệu, lúc thì ném ra bốn cái, khi thì ném ra năm cái. Lindy luôn tập trung chăm chú, kết quả đầu ngón tay chị để lại rất nhiều thẹo. Anh nhớ căn phòng ngủ mà anh và Lindy nằm. Đó là căn nhà trên đường St. Cassian. Anh, Lindy và Karen ở cùng một căn phòng, trước đó là phòng của bố mẹ, trước đó nữa là phòng của bà nội. Lúc ấy, George và Lindy ngủ giường đôi, còn Karen nằm trong nôi. Mỗi lần đến tối, Lindy luôn thỏ thẻ kể chuyện bên tai George:
“Ngày xửa ngày xưa, căn nhà này có một người đàn ông mù, sau đó ông ấy chết ngay đây, em có biết chuyện này không?”. Lần nào George cũng dùng hai tay bịt chặt lấy tai, nhưng một lúc sau, anh buông tay xuống, vừa sợ vừa tò mò hỏi Lindy: “Sau đó thế nào?”…
Có lẽ người phụ nữ đang trong phòng kia là giả mạo. Lúc này, cửa sập mạnh lại, tiếp đó vọng ra tiếng của Sally: “George?”. Anh nghe thấy tiếng gót giày Sally đi lộc cộc trên sàn nhà, tiếp đó cô xuất hiện ở cửa phòng khách.
George thấy như cô đến từ một hành tinh khác: mái tóc màu vàng kim óng ánh, hai má ửng đỏ, cổ chiếc áo khoác lông cừu dựng cao lên, che lấy phần dưới mặt. “George, Samantha về chưa? Em quên nói với con bé… Sao thế?”.
“Gì mà sao thế?”, George hỏi. “Sao anh nhìn em như thế?”. “Anh có nhìn gì đâu!”.
“George, xảy ra chuyện gì vậy?”.
“Không, chẳng xảy ra chuyện gì cả”. George từ từ đứng dậy, nới lỏng cà vạt: “Không có gì, nhưng anh nên nói em biết một chuyện, ừm, Lindy đến nhà”.
“Lindy nào?”. “Lindy, chị anh”.
Sally sửng sốt nhìn George: “Trong nhà chúng ta sao?”.
“Phải, chị ấy đang nói chuyện điện thoại với Pagan trong phòng khách”.
Lúc này, Lindy đi đến hành lang ở cửa vào, đứng phía sau Sally. Sally quay người sang.
“Sao thế?”, George hỏi.
Nhưng Lindy dường như không nghe thấy lời George nói, mà đứng ngây người nhìn Sally. George ý thức được mình nên giới thiệu hai người làm quen. Bỗng nhiên, Sally nhào đến chỗ Lindy, nắm lấy tay cô: “Ôi, chị Lindy, trời ạ! Tốt rồi! Em vui quá! Phải, em là Sally, vợ George. Thật đấy, gặp chị em rất vui!”.
Trước giờ, Lindy rất ghét người cứ chuyện bé xé to, thậm chí mẹ họ làm thế cũng khiến cô khó chịu. Nhưng hôm nay, cô chẳng bận tâm chuyện đó chút nào.
“Chị đến lâu chưa? Chị từ đâu tới? Sao chị tìm được chúng em?”, Sally hỏi một hơi. Cô ngồi ngay cạnh Lindy, áo khoác vẫn chưa cởi ra, nên trông cô như khách đến chơi nhà vậy. “Em trai chị trông thế nào? Chị còn nhận ra anh ấy không? Hai chị em không giống nhau cho lắm, chị thấy sao? Em nghĩ, chị giống với ông nội hơn!”.
George nói: “Sally, anh nghĩ chúng ta nên nghe Lindy kể chị ấy vừa nói gì với Pagan”.
“Ồ, em xin lỗi, em cứ nói luôn miệng nãy giờ!”. Sally nói lớn. Sau đó cô ngồi thẳng người, hai tay đan vào nhau, nghiêm túc chờ Lindy kể.
Lindy nói: “Ồ, được”.
“Chắc cảm động lắm!”, Sally nói với Lindy: “Thật khó tưởng tượng! Suốt bao năm nay, cuối cùng, phải, chắc mẹ con chị có rất nhiều chuyện để nói”.
“Cũng không phải”. Lindy nói.
“Vậy chắc hai mẹ con bất ngờ lắm, nên xúc động nói không nên lời?”.
“Trời ạ, Sally, để chị ấy nói được không?”, George kêu lên.
Sally giật mình, nhưng Lindy nói ngay: “Không sao đâu”. Môi Lindy dường như không cử động, vẻ mặt cô cứng đơ chẳng có biểu cảm gì, “Giọng nói của nó khác trước, chuyện này chị không nghĩ đến – nó không còn nói chuyện như lúc nhỏ nữa, mà rất rõ ràng và ngọt ngào”. “Nó nói những gì?”, Sally hỏi, sau đó cô liền nhìn George một cái.
“Pagan rất lễ phép, nó hỏi chị sống thế nào, nó bảo rất vui khi biết tin về chị, nó bảo nó kết hôn rồi… Chị nói với nó ‘Con thấy sao nếu mẹ con ta gặp nhau?’. Nó trả lời ‘Gặp nhau? Ồ, ừm, con thấy không hay cho lắm. Con thấy hình như không cần thiết, mẹ nghĩ sao?’”.
Sally nói: “Không cần thiết?”.
“Ừm, em nghĩ là em hiểu được Pagan”. George nói. Hai người phụ nữ đều nhìn anh.
“Ý em là”, George bổ sung: “Hai người nghĩ xem, chính là… hoàn cảnh bây giờ”.
“Không, em không hiểu”, Sally quay sang nói với Lindy, “em mong chị có thể thuyết phục nó, Lindy”.
“Không, chị không làm thế, chị nói với nó ‘Được. Nhưng, nếu như lúc nào đó con muốn gặp mẹ, mẹ có cho cậu George số điện thoại của mẹ rồi’”.
“Vừa nãy nó vẫn chưa kịp ý thức đã xảy ra chuyện gì”, Sally nói vẻ kiên định, “nó là đứa tốt bụng, hãy tin em, nó rất tốt. Có điều mọi chuyện quá đột ngột với nó, chờ nó bình tĩnh lại, nó sẽ gọi điện cho chị, thật đấy. Một thời gian ngắn thôi, điện thoại nhà chị sẽ đổ chuông”.
“Không, chị nghĩ nó không làm thế đâu”. Lindy nói xong liền khoác áo vào: “Chị nghĩ, chị nên về”.
“Bây giờ sao? Chị em ta vừa mới gặp thôi mà!”, Sally nói lớn.
“Chồng chị đang chờ ở nhà”.
“Chị kết hôn rồi à? Giờ chị sống ở đâu? Em vẫn chưa biết gì cả!”.
“George sẽ kể với em, chị thấy rất mệt, nên chị về đây”. Lindy đứng dậy, hai tay nắm chặt lấy xách tay, bước từ từ ra cửa, dáng cô đi trông rất bi thương.
“Khoan đã”. George gọi.
Lindy dừng bước, nhưng không quay đầu lại.
“Thế còn bố và Karen? Chị không đến thăm họ sao?”. “Để hôm khác vậy”. Lindy trả lời.
Bỗng nhiên George có một cảm giác rất quen thuộc, bất lực và khó xử: “Chị vẫn là chị!”.
Sally nói với Lindy: “Ồ! Họ đều rất nóng lòng muốn gặp lại chị! Vợ chồng em gọi điện để họ đến đây chơi một lúc cũng được! Chỉ một lúc thôi, vài phút thôi. Được không?”.
“Em biết đấy”, Lindy nói với Sally: “chị quả thật rất mệt, chị xin lỗi. Em là người tốt, nhưng giờ chị chỉ muốn về nhà, sau đó lên giường ngủ. George, số điện thoại của chị ở trên bàn, nếu Pagan muốn tìm chị. Nhưng… nó sẽ không làm thế đâu”.
Chuyện kỳ lạ nhất cũng bất công nhất là mọi người đều vì thế mà trách George. Sally bảo anh quá bị động, thậm chí lúc Pagan từ chối Lindy, dường như anh rất vui. “Anh xin em!”. George nói: “Nghe anh đi. Ai gọi điện cho Pagan chứ? Ai bảo với Pagan là có người muốn nói chuyện với nó”.
“Em thề khi anh nghe Lindy bảo Pagan không muốn gặp chị ấy, anh thấy rất vui. Nghe thử xem lúc đó anh nói sao: ‘Ồ, em nghĩ, em có thể hiểu được vì sao nó làm thế’. (Lúc giả giọng George, Sally cố tình khoa trương thêm lên). Anh và Pagan là cùng một giuộc! Anh cũng thấy Pagan không nên gặp Lindy. Chính là thế, anh là người không bao giờ thứ tha cho người khác, George Anton”.
“Em à”, George lớn giọng với Sally, “năm ba tuổi Pagan đã bị mẹ bỏ rơi! Em tưởng sau hơn 20 năm, nó vẫn muốn nói gì với mẹ nó sao?”.
“Nhưng giờ nó không phải đứa trẻ ba tuổi nữa!”. Sally nói: “Nó đã 25 tuổi rồi! Nó đã có chuyện nói với Lindy, dù chị ấy biết nó giận chị ấy biết bao! Giờ anh nên gọi cho Pagan, ngay bây giờ, George, bảo nó đến đây. Lúc đó anh không nên rời khỏi phòng, có lẽ Lindy rất hồi hộp, nên lỡ lời gì đó”.
“Anh muốn cho họ không gian riêng tư, Sally”. “Không gian riêng tư? Đấy là suy nghĩ của anh? Sự thật là, anh cũng như bố! Bố con anh nghĩ rằng lạnh nhạt là điều tốt nhất!”.
Bố? Bố anh mới là người không đáng được tha thứ nhất trên đời! Thái độ của ông vẫn như bao năm nay. Khi George gọi điện cho ông, ông hỏi: “Nó có bảo khi nào về không? Sao lúc đó con không nói bố biết? Lẽ nào con nghĩ bố không muốn gặp nó sao?”. Biểu hiện của ông hoàn toàn giống một người không vui vì bị che giấu sự thật, chứ chẳng ý thức được rằng mình đã không làm tròn trách nhiệm dạy dỗ con cái của một người cha. Điều ông nghĩ được chỉ là: “Nó có nhắc đến bố không? Nó có hỏi bố giờ thế nào không?”.
“Dĩ nhiên, chị ấy có hỏi”. George trả lời. Thực tế, hoặc ít hoặc nhiều, Lindy đã có nhắc đến Micheal.
“Chắc nó buồn về chuyện của mẹ lắm?”. “Phải”.
Nghe bố thở dài, George rất khó chịu. “Ôi, Pauline tội nghiệp, nghĩ đến việc mẹ không chờ được đến ngày này, bố đau lòng quá!”.
“Con hiểu, thưa bố”.
“Mẹ chưa bao giờ từ bỏ hy vọng, bố biết, mẹ luôn tin rằng, sẽ có một ngày… Lindy trở về. Phải, lần nọ khi mẹ có chuyến du lịch với các bạn trong nhà thờ, con nhớ không? Nhưng mẹ luôn kiên trì bảo mình không thể rời khỏi nhà trong thời gian dài thế, bà thấy mình không nên đi. Bố có khuyên mẹ, bố nói chúng ta có thể xử lý tốt mọi chuyện. Lúc đó, con đã vào đại học, còn Karen, ừm, bố nghĩ xem nào, nếu lúc đó con 18 tuổi, vậy Karen, chắc Karen…”
Từ sau khi nghỉ hưu, George thấy sức khỏe của bố ngày càng yếu đi. Cách nói chuyện của ông bây giờ làm ta rất khó chịu, cứ luôn lải nhải, không có logic, hơn nữa lại cứ luôn vòng vo. Ông không ngừng lặp lại, hoặc bỗng nhiên dừng để tìm một từ thích hợp. Mỗi khi nói chuyện, ông luôn cố nói rõ ngày tháng, tên đường hoặc một người cụ thể. Thật ra mấy chuyện đó chẳng liên quan gì đến điều ông muốn nói. Ông quá cô đơn, nên mới thế này. Trước đây, cửa hiệu tạp hóa là tất cả cuộc sống của ông. Thông thường, Anna sẽ nhắc nhở ông, để ông có thể tiếp tục nói, chẳng hạn: “Ừm, tháng 6 phải không? Hoặc là tháng 7? Hay thời gian nào khác? Dù thế nào…”. Anna luôn dịu dàng như thế. Nhưng lúc gọi điện, Anna đành bất lực. George vừa định mở miệng, cuối cùng Micheal lên tiếng: “Phải, mẹ các con luôn, bà ấy luôn nhìn ra cửa sổ, chờ Lindy về”.
“Con biết không, mẹ giữ lại mọi thứ của Lindy, để nó về có cái mà dùng. Thứ gì cũng giữ lại: quần áo, sách, mỹ phẩm, cả đĩa nhạc…”.
Dĩ nhiên George biết chuyện này. Đấy là những thứ họ bất ngờ phát hiện sau khi Pauline qua đời, lúc đó họ vẫn chưa hoàn toàn đón nhận sự thật về vụ tai nạn giao thông. Chính Marilyn Bryk bạn cũ của mẹ gọi điện đến báo. Đấy là đêm thứ tư trời mưa – Marilyn là một bệnh nhân ung thư, lý ra bà qua đời sớm hơn mẹ mới phải. Vì cảnh sát phát hiện trong xách tay của Pauline thiệp mừng sinh nhật có viết tên Marilyn nên mới báo cho bà biết. Thử nghĩ xem, trong tình huống đó, khi họ phát hiện một chiếc áo đen cổ cao đã bạc màu, một chiếc quần bò nạm rất nhiều đá trang trí, ống quần lên lai bằng viền bạc, một chiếc áo mưa nhăn nhúm có khóa lưng và cầu vai cùng với một tủ quần áo, họ cảm thấy thế nào. Nhưng Samantha, con gái của George, bảo với mọi người đấy là đồ dùng của Lindy. Theo George, con gái anh rất yêu Lindy. Nó luôn hỏi những điều liên quan đến Lindy, hoặc thẫn thờ nhìn ảnh cô, cứ như Lindy là một nhân vật thần bí và ảo tưởng trong tiểu thuyết.
Thế nên, khi Samantha nghe nói Lindy từng đến nhà nhưng nó lại lỡ mất cơ hội gặp mặt, nó như phát điên lên. “Lindy từng đến đây? Đến nhà chúng ta? Chính là người mà con luôn ao ước được gặp từ khi chào đời sao? Trời ạ, thật không ngờ bố mẹ lại để cô Lindy về như thế, cô ấy đi mà không chờ con về gặp mặt một lần!”.
George hỏi: “Trời tối rồi con vẫn không về nhà lẽ nào là lỗi của bố?”.
“Con không biết, nhưng dù sao không phải lỗi của con! Con chờ thầy huấn luyện tennis cả buổi! Mẹ quên nói với con hôm nay thầy nghỉ! Cô Lindy ở đây bao lâu a?3 phút rưỡi? Sao cô ấy bỏ về vội thế? Hay bố nói gì đó nên cô mới bỏ về? Bố làm cô cảm thấy không được chào đón ở đây ư?”.
Dĩ nhiên, điều làm George phiền nhất không phải Samantha cứ theo gặng hỏi suốt, mà là cú điện thoại của Gina vợ Pagan.
“Không, trời ạ, bà ấy về rồi, Gina”.
“Ừm, cậu George, Pagan nên gặp mẹ một lần, cháu nghĩ chúng ta nên… mọi người trong nhà, chúng ta nên họp mặt”.
“Nhưng Pagan bảo…”.
“Trước tiên, cũng là điều quan trọng nhất, cháu cần biết ba tháng gần đây nhất bà ấy có hút ma túy không”.
“Cháu muốn hỏi bà ấy chuyện này?”.
“Vâng, chuyện như thế sẽ có ảnh hưởng cả đời người”. “Ừm, xin lỗi, Gina, nhưng Pagan bảo không cần thiết gặp bà ấy”.
“Chí ít cậu có thể thảo luận với anh ấy”. Gina nói. “Cậu không nghĩ mình có quyền gì thảo luận vấn đề này với Pagan, theo như cậu thấy”, hình như George hơi giận, “dù thế nào, Pagan là đứa bị tổn thương, ít nhất nó có quyền quyết định mình muốn gặp ai”.
“Ừm, như thế thật khó chấp nhận”. Gina nói.
George khẳng định: “Trên đời có rất nhiều việc chẳng dễ dàng được chấp nhận, nhưng thế không có nghĩa chúng sẽ không xảy ra”.
Chỉ mỗi Karen hiểu được việc làm của George. Lúc đầu, cô hỏi tường tận mọi chi tiết: trông Lindy giờ thế nào dường như là vấn đề cô quan tâm nhất, sau đó Karen hỏi sao Lindy không chờ Karen đến rồi mới về, rốt cuộc cô đã nói gì với Pagan. “Ít nhất, Pagan không gác máy, đúng không? Hay sau đó nó chủ động gác máy? Anh đoán xem, Pagan có hỏi xem bố nó là ai không?”.
“Anh chẳng biết gì cả”. George nói với Karen.
“Ồ, theo em không nên trách Pagan. Chính Lindy bỏ lại nó mà chẳng nói tiếng nào, sau đó biến mất, để nó tự sinh tự diệt, rồi giờ chị ấy lại xuất hiện, nói một câu:
‘Ôi, con yêu, con có con rồi phải không? Mẹ muốn biết giờ nó thế nào’. Pagan làm rất đúng, nó chẳng nên gặp chị ấy”.
George rất hiếm khi trò chuyện với Karen, tuy tình cảm anh em rất tốt – George nghĩ thế – nhưng lối sống của họ khác hẳn nhau. Hơn nữa, George cảm giác Karen không mấy thích Sally, tuy cô chưa từng nói thế. Vào lúc này, với Karen, George có cảm giác thân thiết khó tả, anh nói với cô: “Mong em có thể thuyết phục Gina”.
“Gina?”.
“Phải, con bé vừa gọi cho anh, nó rất giận. Nó cho rằng anh nên trói Lindy lại, sau đó chờ nó về nghiên cứu gene của chị ấy. Dường như nó đang hình dung trong nhà sắp có một cuộc chạm trán lớn”.
“Ồ, thế à. Nếu Gina nghĩ thế”, Karen nói, “sự việc đó rất có thể xảy ra”.
Suýt chút nữa George quên rằng Gina là “mẫu số chung” giữa George và Karen.
***
Chuyến viếng thăm của Lindy tựa như một màn mở đầu, suốt mấy ngày sau đó, George luôn bị thứ mà anh gọi là “mảnh vụn ký ức” bủa vây. Chúng rõ ràng và sinh động hơn nhiều so với những hồi ức đơn thuần, tựa như từng bức tranh tái hiện rõ nét. Anh nhìn thấy cây gậy gỗ bố thường dùng, chỗ tay cầm đã mòn và sáng bóng, mỗi lần thấy nó treo trên quả đấm cửa bếp ở căn nhà trên đường St. Cassian, George đều có cảm giác rất phức tạp đan xen giữa cảm động và đau buồn; chậu cây phong lữ mẹ lấy từ sọt rác nhà hàng xóm về, cuối cùng, nó biến thành một cái cây to, cành lá bò đầy trên bệ cửa sổ; anh còn nhớ đến cửa hiệu tạp hóa của bố, bố đếm tiền thối cho khách hàng ở quầy tính tiền cao cao làm bằng đồng; trước mỗi lần khai giảng, mẹ đều dẫn anh đi mua giày và anh phải để cho mẹ nhét mạnh ngón chân mình vào đôi giày.
Anh còn nhớ đến những lần mua sắm khác. Khi mẹ trả giá không biết mệt mỏi, anh thấy chán vô cùng. George nhớ có một lần, mẹ đến một cửa hiệu thử chiếc áo khoác cotton màu xám, vài phút sau, anh nghe thấy mẹ hét to: “Ối, các con ơi! Nhìn mẹ các con nè, có phải giống hệt một bệnh nhân tâm thần không?”. Vừa nhìn thấy bộ dạng của mẹ, Lindy cười khanh khách không ngừng, nhưng George lại căng thẳng: anh thấy mẹ mặc màu xám trông rất nghiêm.
George lại nhớ đến Lễ Giáng sinh năm nọ, bố tặng mẹ bộ đồ ngủ màu đen, phần ngực là đăng-ten cũng màu đen – gần như hoàn toàn trong suốt. “Ôi, Michael!”, mắt bố nhìn xuống miệng cười gượng gạo. Mẹ liền mang bộ đồ ngủ vào phòng mặc thử. Lúc đó, họ sống ở Elmview Acres, bên kia hành lang là phòng khách, ngay đối diện chính là phòng ngủ. Một lúc sau, mẹ không bước ra khỏi phòng, mà dịu dàng gọi: “Michael, anh vào đây chút được không?”. Bố đặt đôi vớ trên tay xuống, đi vào phòng ngủ, sau đó nghe thấy tiếng khóa cửa phòng, rồi một thời gian rất dài sau chẳng nghe thấy tiếng động gì cả. Bọn trẻ lúc đó, một đứa khoảng 12 tuổi, hai đứa kia khoảng 11 tuổi và 7 tuổi, đều đưa mắt liếc nhìn nhau. Mãi đến giờ nhớ lại, George vẫn phải phì cười.
Ồ, dường như bố mẹ chẳng có quá nhiều việc làm họ đỏ mặt, chẳng biết có phải đứa trẻ nào cũng nghĩ thế không? Nhưng George thấy cuộc sống của nhà Anton bất thường hơn mọi người khác. Chẳng hạn, vẫn vì bộ đồ ngủ đó, vài giờ sau, lại bùng nổ chiến tranh. Bỗng nhiên mẹ hỏi bố sao biết được kích cỡ của mẹ, hóa ra bố đi mua cùng Katie Vilna, theo lời bố nói, bố nghĩ mẹ và Katie có cùng kích cỡ với nhau. Thế là trời sụp! George không biết rốt cuộc là bố có ẩn tình với người phụ nữ khác, hay mẹ thấy vòng ngực của Katie nhỏ hơn mình nhiều. Nhưng sau đó, mẹ nổi trận lôi đình, bố mắng mẹ là đồ điên, thế rồi mẹ vứt bộ quần áo đó vào sọt rác…
Mọi người đều không muốn đến chơi nhà Anton. Dường như người nhà Anton đều có những cử chỉ quái dị và hơi khoa trương, chẳng hạn, họ sẽ vứt hết quần áo, hoặc bỏ đi khỏi nhà hoặc…
Hoặc 29 năm sau bỗng nhiên xuất hiện, sau đó hỏi han mỗi người sống thế nào…
Phải, như Karen từng dự kiến, cuối cùng họ sẽ đoàn tụ. Có một lần, Gina xuất thần nhìn thứ gì đó, rồi gọi điện cho Anna, lại gọi cho Karen, sau đó gọi cho George hỏi số điện thoại của Lindy, sau đó nữa, chẳng biết bằng cách gì Gina làm Pagan đồng ý gặp Lindy. Có lẽ, việc đầu tiên Gina làm là thuyết phục Pagan. Dù thế, cách này rất hiệu quả, cuối cùng họ xuất hiện ở nhà Anna vào trưa một ngày chủ nhật cuối tháng ba. Mọi người đều đến: Pagan đi cùng Gina và con họ, chồng Lindy cũng có mặt. Họ chuẩn bị một con heo quay, vì Gina ăn chay, nên họ còn đặc biệt chuẩn bị bánh mì dài sốt cà chua. Hôm đó chẳng xảy ra chuyện gì đặc biệt. Không ai nổi giận; cũng như chẳng ai rơi lệ. Khi Lindy thấy cháu mình, mắt cô sáng lên: hiển nhiên, đứa bé 6 tháng tuổi này làm cô nhớ đến Pagan trước đây. Cô vẫn xử sự rất khéo léo, Pagan cũng thế. Thực tế, hầu như họ chẳng nói gì. Tất cả tình cảm của Lindy đều dồn hết cho đứa cháu. Cô chẳng nói gì nhiều với Pagan, thậm chí cố gắng không nhìn về phía nó. Còn Pagan vẫn lịch sự và ôn hòa như mọi khi. Đến chiều, mọi người bắt đầu những lời khách sáo thường dùng: chúng ta phải thường họp mặt thế này nhé, gặp được anh (chị) quả thật rất vui, lần sau nhớ đến nhà tôi chơi nhé…
Nhưng sao George lại thấy buồn bực?
Anh uể oải ngồi trên chiếc ghế chơi piano của Anna, hai tay bắt chéo, cằm dán trước ngực, quan sát xung quanh với ánh mắt phớt lờ, bên tai vang lên mỗi câu nói của Lindy trong những buổi họp mặt gia đình trước kia. “Ồ, vâng, cho con ít trà được rồi. Giờ con không uống loại thức uống có gas”. George phát ra tiếng thở nặng nề. Phải biết rằng, giọng điệu của Lindy giống như cô gái vô tội trong “Người đẹp và quái thú”: “Bố ơi, con chỉ muốn một đóa hồng tươi đẹp, năn nỉ bố mà!” Xem phản ứng của Michael nào, “Ồ, dĩ nhiên, có ngay!”. Tội thật, ông phấn chấn thế, mặt đầy vẻ hạnh phúc, rạng ngời vì vui mừng.
Không chỉ thế, thậm chí diện mạo của những người ở đó đều làm George thấy chướng mắt: chồng Lindy tựa như bức tranh biếm họa về một thầy giáo người Anh, bộ râu tỉa đều đặn làm ta ngỡ rằng cằm của anh ta vốn có hình dạng đó, đôi mắt màu xám luôn ẩn chứa nụ cười khó hiểu, còn cả miếng vá giả da hươu khó coi ở khuỷu tay. George luôn nghĩ kiểu tóc của một người có thể phản ánh sâu sắc tính cách của người đó. Chẳng hạn, người có đầu tóc gọn gàng và bóng mượt thường tính cách cũng khá ôn hòa; còn người có kiểu tóc quăn ngắn ngủn thường khó kiểm soát. Gina có kiểu tóc đó, cộng thêm hai điểm tròn trên ngực áo, trông cô càng khó coi hơn; nhìn Samantha xem, toàn thân màu đen, dây buộc tóc hình đốt xương này nối lấy đốt xương kia, phong cách ăn mặc của các thầy chiêm tinh sao? Bộ đồ lỗi thời của nó chắc chắn lục trong tủ áo cũ của Lindy, nhưng dù Lindy nhận ra đây là quần áo của mình, cô cũng chẳng có biểu hiện gì. Lúc này, Gina đang bận chăm sóc con nhỏ, cô mặc chiếc áo khoác của người vùng quê thô ráp.
Lindy mất tích suốt thời gian qua ngồi ngay đây, đấy là bí mật của nhà Anton, là vết thương làm mọi người đau đớn. Nhưng giờ đây, họ đang làm gì thế? Họ ngồi đó bàn tán đôi mắt của em bé chừng nào đổi màu; nói về rượu sherry hoặc nước soda hoặc nước ngọt vị gừng…
Karen nói khẽ bên tai George: “Em luôn nghĩ chúng ta chỉ tổ chức họp mặt bình thường thôi, nơi đây có một vị khách bình thường, đó là Lindy”. Lời Karen nói dường như hơi giống với điều George đang nghĩ: mọi chuyện đều đơn giản thế sao? Có thật Lindy đã trở về cuộc sống của mọi người không?
Bỗng nhiên Gina hỏi: “Phải rồi mẹ Lindy, con muốn hỏi điều này, Pagan có gì di truyền từ bố không?”.
Lindy trả lời: “Ừm, nói sao nhỉ? Thực tế, mẹ không rõ lắm… di truyền ư?” cô nhìn mọi người, “Anh ấy chỉ là một tay trống ở một thị trấn nhỏ vùng Texas, thật ra cũng chẳng thể gọi là vợ chồng, ý mẹ là, mối quan hệ đó không phải như mọi người nghĩ”.
Dường như Pagan không nghe cuộc trò chuyện của họ, hoặc nó chẳng màng bận tâm. Nó chỉ thoải mái ngồi cạnh Gina, nhìn cô xem, ôi, trời ạ! Cô cởi nút áo, rồi cho con bú trước mặt mọi người. “Tay trống?”, cô thốt lên, “Em biết sao anh có khiếu âm nhạc thế rồi!”.
“Phải, có thể là như thế”. Pagan phụ họa, nhưng hiển nhiên nó chẳng mấy hứng thú với đề tài này.
Sally chen vào: “Sao giờ cứ phải treo nhiều hoa như thế, dù chưa đến ngày nghỉ? Ý em là, tháo chúng ra khỏi cửa chắc rất tốn công!”.
Chồng Lindy bạo gan nói: “Tôi nghĩ đây là một trong những cách trang trí làm mọi người chán ghét!”.
“Nhưng mọi người vẫn phải trang trí cây thông Noel mà, đúng không? Cả vườn nhà mình nữa! Thế tại sao ta lại chán ghét những bông hoa này chứ? Chỉ là những bó hoa đơn giản thôi!”.
“Ồ, mẹ à, nếu người ta thích thì cứ để họ treo đến tháng 6”, Samantha nói, “cớ gì chúng ta nhọc tâm về chuyện này?”.
“Ôi, Samantha, mẹ chỉ tò mò thôi con ạ”.
Nghe đến đây, George cảm thấy nếu mình nhắm mắt lại, chắc chắn anh sẽ ngỡ rằng mẹ mình đang nói.
Sau bữa trưa mọi người lại bắt đầu “Câu chuyện về Pauline”, George biết ngay sẽ như thế. Anh chẳng còn nhớ từ lúc nào, mọi người trong nhà tập thành thói quen này: luôn mang những chuyện ngây ngô buồn cười trước đây của Pauline ra nói, lần nào bố cũng cười ra tiếng, còn Anna thường lộ vẻ mặt khoan dung. Thông thường, George cũng góp vui, nhưng lần này, anh chỉ im lặng ngồi đó.
“Mẹ luôn như thế”, Sally vừa đưa đĩa mì Ý cho Lindy vừa nói: “khi chúng em còn sống trong thành phố, có một lần đi trên phố, mẹ cho người ăn xin một đô, nhưng người đó chẳng phải kẻ ăn xin, ông ta là giáo sư đại học. Ông ta nói với mẹ: ‘Thưa bà, tôi là một giáo sư’. Nhưng me lại vẫy tay nói với người đó: ‘Ồ, không sao đâu, cứ giữ lấy!’. Em đến phải thốt lên: ‘Mẹ Pauline…’”.
Chồng Lindy lại phát ra tiếng cười hô hố rợn tóc gáy. Chỉ có Lindy và George bốn mắt nhìn nhau, dường như Lindy hiểu được ý của George, nên cô không cười.
Sau những lúc vui cười, mọi người đều ra về, còn bảo sẽ thường họp mặt thế này, sẽ đến nhà chơi, sẽ thường liên lạc…
George đứng trong vườn nhà Anna, anh hôn nhẹ lên má Lindy, sau đó bắt tay chồng cô.
Giờ đây điều George muốn hỏi là Lindy, sao chị làm thế? Có đáng không? Cả nhà chúng ta từng đau khổ thế? Rốt cuộc có chuyện gì quan trọng mà chị phải làm cho gia đình tan nát thế chứ? Lẽ nào chị chưa từng suy nghĩ về việc mình làm sao? Chị chưa từng hối hận sao? Suốt bao năm nay chị có nhớ đến mọi người không? Chị có nghĩ mọi người sống thế nào không? Tối chị có mơ thấy cả nhà không? Chị có từng nghĩ mình sai hoặc quá ích kỷ, hoặc quá tàn nhẫn, thậm chí… quá xấu xa không?
Em có thể giữ chị lại không?
Em có thể dễ dàng lãng quên không? Sao chị lại rời khỏi em chứ, Lindy?
Chương 9
Michael choàng tỉnh sau cơn mơ, ông mơ thấy cảnh sắc chỉ có trong cổ tích: xung quanh đều là những ngọn núi nhỏ và thung lũng màu xanh nhạt, con đường ngoằn ngoèo kéo dài đến nơi xa tít. Cảnh tươi đẹp này tôn thêm vào sắc màu cho buổi sáng hôm nay. Ông tắm, cạo râu, thay quần áo và cùng Anna ăn sáng. Giọng Anna dường như vọng từ nơi rất xa đến: “Tối nay em sẽ về trễ, chúng em phải chuẩn bị cho Giáng sinh”.
8 giờ 45 phút sáng, ông lái xe đưa Anna đi làm. Từ sau khi ông nghỉ hưu, nhà họ có một số quy định. Ông phải dậy sớm, sau đó ra khỏi phòng, và suy nghĩ xem hôm nay phải làm những gì. Sáng nay, ông lên kế hoạch đi mua một ít xi-măng trám cửa sổ. Công việc này làm ông thoải mái hơn những việc khác, vì thế khi nghe thấy Anna cằn nhằn tối qua, trong lòng ông tràn đầy niềm phấn khởi khó tả. Giờ ông lại suy nghĩ vài phương án có thể chọn: lấp lỗ bằng mát – tít hay sợi nỉ? Hoặc nên chuyên nghiệp hơn? “Tôi nghĩ sẽ tìm được thứ mình cần ở cửa hiệu Schneider”. Micheal nói với Anna.
Anna liền hỏi: “Sao? Tôi nghĩ ông không nghe những gì tôi vừa nói”.
Do dự một lúc, Michael nhớ lại chuyện vừa xảy ra tựa như một cuốn phim. “Tôi đang nói về hiệu trưởng Cal”, Anna nhắc, “là chuyện về nhà trường”. Michael bạo dạn càu nhàu: “Lại nhắc chuyện cũ”.
“Từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều, chúng tôi chẳng có thời gian nghỉ ngơi. Dù là lúc ăn trưa vẫn phải làm việc, chúng tôi phải cùng dùng bữa với học sinh. Sau giờ học, ông ấy còn bảo chúng tôi ở lại họp hành gì đó! Lần này lại còn họp vào thứ sáu nữa chứ! Đến khi tan sở về đến nhà, thì mệt nhoài cả người”.
Michael mở đèn xi-nhan, lái xe vào làn đường dành riêng cho “Trường nghệ thuật Maestro”. “Anna”, xe họ đang chạy dưới con đường đầy nắng, rừng cây hai bên đã rụng hết lá, “có một cách giải quyết rất đơn giản, đó chính là nghỉ hưu. Bà 80 tuổi rồi, nhưng vẫn dạy học, hoang đường quá đấy!”.
“Tôi không muốn nghỉ hưu”. Anna trả lời.
“Chúng ta có thể đi du lịch”, Michael dừng xe ở bãi đậu chật hẹp, quay sang nhìn Anna: “Chúng ta nên dành nhiều thời gian ở bên các con, bà nên đi thăm con gái nhiều hơn”.
Thật ra, Anna vẫn còn là một người phụ nữ thanh lịch, tuy tóc đã bạc trắng, hơn nữa mặt cũng đầy nếp nhăn. Bà nói vẻ quả quyết: “Dạy học rất quan trọng với tôi, tôi không bao giờ chủ động từ bỏ nó”.
“Được thôi, nghe những gì bà vừa nói với tôi xem, chẳng phải bà bảo tan sở người cứ mệt nhoài sao? Tôi chỉ nói bà nên làm thế nào thôi”.
“Nhưng tôi chẳng muốn làm gì cả”.
“Tùy bà vậy, tôi bỏ cuộc”.
“Nếu tối họp quá trễ, tôi không thể đi bộ về, đến lúc đó tôi sẽ gọi cho ông”. Nói xong, Anna mở cửa bước xuống xe, “Chúc vui vẻ nhé, ông xã”.
“Bà cũng thế, tạm biệt”.
Nhưng khi lái xe ra khỏi bãi đậu, chạy dọc trên đường về, Michael lại nhớ đến mẫu đối thoại lúc nãy. Nếu một người đưa ra vấn đề nào đó, chẳng phải người kia nên đưa ra những kiến nghị có thể giúp đối phương sao? Vợ chồng nên ủng hộ nhau, nhưng với Anna lại khác, bà chẳng cần ai cả. Với bà, Michael chỉ là một món đồ trang sức chẳng có giá trị, chỉ là xa xỉ phẩm, là món tráng miệng.
Ông lái xe về hướng đường Falls, nói lớn: “Bà ấy cũng có thể là món tráng miệng của mình!”.
Đến tháng 6 năm sau, ông và Anna đã lấy nhau tròn 22 năm. Trời ạ! Nhưng trải qua thời gian dài thế, ông vẫn thấy đây là cuộc hôn nhân có vẻ vô nghĩa. Dù cuộc sống của họ rất bình yên, nhưng Michael luôn thấy đây là cuộc hôn nhân nhạt nhẽo, chẳng có cảm giác chân thật. Nếu Michael có thể sống thêm tám năm, tuổi hôn nhân của ông sẽ dài hơn Anna. Và hy vọng sống thêm tám năm của ông vẫn rất lớn, vì bác sĩ nói, tim của ông chẳng khác gì lúc 60 tuổi. Khi nghe thấy những điều này, thậm chí ông còn kêu lên: “60 tuổi! Già thế sao!”. Ông không ý thức rằng mình đã rất già. Giờ đây khi khom lưng, tay ông rất run, mặt cũng đầy nếp nhăn làm ông chẳng nhận ra mình là ai. Dù thế, ông lại có trái tim của tuổi 20: nếu thấy cô gái mặc áo đỏ vẫy tay tạm biệt với mình, thậm chí ông còn đạp xe đuổi theo!
Hôm nay là ngày kỷ niệm sự kiện Trân Châu cảng đầu tiên sau vụ ngày 11/9, vì thế không khí sôi động hơn mọi ngày. Suốt cả tuần, ti vi đều phát những bộ phim tuyên dương chủ nghĩa yêu nước, các bài phỏng vấn lính già, giọng của họ tựa như chiếc ghế mây cũ kêu cót két, nếp nhăn trên mắt họ nhỏ như một sợi chỉ. Hiện tivi đang phát lại bài diễn văn “Quả là một ngày ô nhục” của Tổng thống Roosevelt. Michael rẽ trái vào đường Northern Parkway, kết quả ông phát hiện mình chọn phải một con đường kẹt xe, phía trước hàng đèn thắng xe nhấp nháy vô tận. Ghét thật, mình vốn có thể đi đường Harvest! Michael dừng xe, uốn người cởi chiếc áo khoác len, ném nó qua chiếc ghế bên cạnh.
Michael thấy rất ngạc nhiên, mỗi khi ông gây gổ với Anna, chuyện đó đều không ảnh hưởng đến cuộc sống sau này của họ. Anna không bao giờ chất đống mọi vấn đề với nhau, cũng không để những chuyện cũ rích ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chỉ cần hai phút, bà sẽ tiếp tục làm việc của mình như chưa xảy ra chuyện gì cả. Dù họ cãi nhau dữ dội, Anna cũng không thấy điều đó sẽ đưa hôn nhân của họ đến điểm dừng. Ồ, từng có một hai lần như thế, đó là lúc họ vừa mới kết hôn, có lẽ vì muốn mình thoải mái một chút, ông nảy sinh ý định ly hôn lần nữa. “Nếu một người có nguyện vọng ly hôn mãnh liệt, anh ta sẽ luôn ly hôn”. Nhưng Anna hoàn toàn không thể lý giải, “Ly hôn?”. Bà luôn ngờ vực về vấn đề này.
Trong giấc mơ tối qua, ông lạc trong một thung lũng đầy sương mù, không sao tìm được đường về nhà. Sau đó một người phụ nữ tóc vàng, tay cầm cây trượng phép thuật đã giúp ông. Chuyện gì thế nhỉ? Lẽ nào ông gặp được một bà tiên tốt bụng? Mãi đến giờ, Michael vẫn còn nhớ, bà tiên dặn ông tuyệt đối không để ai hôn lên tai trái, cũng không để ánh nắng rọi lên vai trái, còn nữa, bà còn dặn ông không được nghe tiếng bước chân theo dõi phía sau. “Tóm lại”, bà tiên nói bằng giọng ngọt ngào, “tuyệt đối không được quay đầu lại – nếu ông muốn về nhà an toàn”. Sau đó, ông tỉnh giấc.
Đến cửa hiệu Schneider, Michael quyết định mua mát-tít – giá rẻ, dùng tiện lợi, hơn nữa không hay bị rối – thật ra, giờ đây Michael làm việc không còn linh hoạt như trước nữa. Sau khi mua một hộp mát-tít, ông lại rảo một vòng trong cửa hiệu. Cửa hiệu không lớn, nhưng thuộc loại vừa đủ khách hàng hầu như có thể tìm thấy mọi thứ mình cần. Ông đứng xem rất lâu ở dãy bán móc treo, mấy hôm trước hình như ông muốn mua vài cái móc…
Trong cửa hiệu có một gia đình ba người đang mua hàng. Ông bố dáng rất cao, đeo kính; bà mẹ là người phụ nữ tóc đen khá ốm yếu, hầu như chỉ cao bằng nửa ông bố thôi; con của họ còn rất nhỏ, chạy ngang chạy dọc trong cửa hiệu. Họ đang trả tiền mua một bộ ván trượt tuyết – loại ván trượt bằng gỗ kiểu xưa, đáy là lưỡi dao bằng kim loại. Thằng bé vui mừng nhảy cỡn lên, Michael thấy bộ dạng của nó bất giác phì cười. “Cháu biết dùng nó chứ?”. Michael hỏi, thằng bé bỗng chốc đứng yên, nghiêm túc suy nghĩ câu hỏi này.
Lâu rồi Michael không nói chuyện với trẻ con, giờ ông cũng chẳng biết nên nói gì với chúng. JoJo con trai George tuy đã ngoài 30, nhưng vẫn sống như một đứa bé choai choai, cậu còn thành lập ban nhạc mang tên “Bóng tối” hát trong đường hầm; Samantha dường như theo chủ nghĩa độc thân, nó vẫn còn đang học y khoa, chẳng có dự định kết hôn, nói gì đến chuyện sinh con. Còn hai đứa con của Pagan đã qua giai đoạn học nói ê a rồi – một đứa 12 tuổi, một đứa 10 tuổi – trò chuyện với trẻ ở độ tuổi này sẽ rất thú vị, nhưng chúng không còn nói huyên thuyên như lúc nhỏ, động chút là cười khì. Bobby đeo niềng răng làm miệng nó trông sưng húp và rất kỳ quặc. Polly chọn kiểu tóc chẳng hợp với nó chút nào: buộc đuôi ngựa hai bên dạng hình cầu phùng lên, trông như tai của chú gấu bông vậy.
Tên Polly thật ra bắt nguồn từ Pauline.
Sao không đứa nào nghĩ rằng sẽ đặt tên cho con chúng là Michael chứ?
Khi họp mặt gia đình, mọi người thường kể những chuyện thú vị về Pauline. Mỗi lúc như thế, Michael đều thấy ganh tỵ. Chẳng lẽ mọi người quên rằng Pauline là người rất khó gần sao? Bà ấy đã là người khắt khe thế nào? Mọi người đều quên rằng bà động một chút là cáu kỉnh sao? Lần cuối Michael gặp Pauline, ông còn nhớ giọng điệu của bà: “Hôm nay tôi phải ôm người hành khất của tôi, tôi phải làm thế! Vì tôi chẳng có lấy một người thân!”. Giọng điệu này đủ làm Michael nhớ đến lý do tại sao họ phải ly hôn.
Michael ra quầy tính tiền, ông lục tìm trong ví mấy đồng xu, sau đó đưa cho nhân viên bán hàng. Ra khỏi cửa hiệu, ông nhìn thấy có một hàng xe quét tuyết đang chạy về hướng mình. Cửa hiệu ngũ kim luôn cho ta cảm giác an lòng, dường như họ đang nói: chúng tôi có thể giúp đỡ bạn, bất cứ chuyện gì, dù là cửa sổ thông gió, vỉa hè đóng băng, vật gia dụng bạc màu, diệt mối, trừ cỏ… Chúng tôi có thể làm bất cứ gì! Việc gì chúng tôi cũng đều thạo cả!
Michael nổ máy, tiếp tục lái về hướng đường Northern Parkway, sắc mặt ông xanh xao, ánh nắng mùa đông chiếu rọi vào bánh lái. Radio đang phát bài “Chiều một ngày mưa”. Âm nhạc bây giờ sao không thể giống như bản nhạc này chứ? Michael rất thích ca sĩ trình bày bài hát này, giọng rất trong, êm dịu, không quá bi thương.
Khi đến đường Rock, Michael mới ý thức được mình đang lái về hướng cửa hiệu tạp hóa cũ. Phải, kế hoạch của ông hôm nay đúng là mua nửa galông (đơn vị đo lường chất lỏng bằng 4,45 lít ở Anh và 3,78 lít ở Mỹ) sữa, nhưng xung quanh có vô số cửa hiệu tạp hóa, thật không cần thiết phải đi đường xa đến đây. Cửa hiệu tạp hóa Anton giờ là Công ty Thực phẩm Thế Giới. Michael ghét cái tên này, ông ghét khái niệm kinh doanh dây xích (một hệ thống siêu thị bán cùng loại hàng, thuộc cùng một hãng). Mỗi lần đến nơi này, ông đều thấy rất buồn, nhưng dường như chiếc xe biết đường lái đến đây vậy. Giờ đây, ông đầu hàng rồi, chẳng chút hứng thú nghe bài phỏng vấn một người lính già trên radio. Ông từng phục dịch ở Pháp, mất hai người anh, ba em họ và người bạn thân nhất trong chiến tranh. Khi kể về những chuyện này, giọng ông thấp trầm, nhưng chẳng có chút phẫn nộ. Thử tưởng tượng xem, nếu chuyện tương tự xảy ra với lớp thanh niên ngày nay sẽ thế nào! Chắc chắn họ sẽ trút giận lên người khác, Michael nghĩ thế. Chẳng biết từ khi nào, người Mỹ bắt đầu cho rằng cuộc sống nên hợp logic.
Michael đi ngang qua một khu phố buôn bán, ông khá bất ngờ vì tháng trước nơi này không phải thế. Tiếp đó, khi ngang qua tiệm giặt đồ, Michael nhớ lại hồi gia đình họ sống trong căn hộ cũ, ông thường mang quần áo đến đây giặt, nhưng bây giờ, nơi đây trở thành một cửa hiệu bán băng đĩa, sau đó là cửa hiệu tạp hóa cũ, từ lâu nó đã không còn mang dáng vẻ như ban đầu, rất nhiều tiệm buôn bán nhỏ hai bên đều bị nó nuốt chửng. Cả cửa hiệu đều được sửa chữa mới lại, bên ngoài là bảng hiệu Công ty Thực phẩm Thế Giới đan xen hai màu lam và lục. Bãi đậu xe sỏi đá được trải nhựa, trông tốt hơn nhiều so với trước đây. Nhưng khi bánh xe của Michael chạy trên đó, sự bằng phẳng của nó lại làm ông bất an. Ông đậu giữa hai chiếc SUV rồi mặc áo khoác vào. Thấy nơi này có quá nhiều xe ông buồn vô cùng, trước đây, khi nhà ông kinh doanh tạp hóa, chưa từng bao giờ có nhiều xe như thế.
Bố cục trong cửa hiệu cũng khác hẳn: họ chuyển quầy bán hoa ra phía trước, chỗ đăng ký có máy quét trước đây được thay thế bằng quầy triển lãm bằng gỗ màu nhạt, trên đó có sushi, xà lách mì ống, couscous (món ăn vùng Bắc Phi, bột mì nấu với thịt hay nước thịt) gà… Đấy là gì thế? Trước quầy bán thịt, một cô gái trông rất giống người Trung Đông mặc quần bò, đôi giày gót nặng nề làm cô cao hơn chiều cao thật sự vài inch, cô đứng trước quầy hàng so sánh mấy lọ trứng cá muối khác nhau, chàng trai đi cùng cô mắt rất xanh, nói giọng đặc thù của người Ái Nhĩ Lan, anh đang hỏi nhân viên bán hàng có phải chất lượng loại trứng cá muối nhập khẩu tốt hơn loại nội địa không. Bên cạnh một bé gái mới biết đi mặc đồ trượt tuyết đang vòi mẹ mua cho cái hot-dog đậu hũ.
Cả quầy bán sữa cũng khác! Michael chú ý thấy rất nhiều loại sữa và kem sữa đều không đóng chai như trước đây nữa. Nhưng, ông vẫn chọn sữa đóng hộp hiệu Cloverland thường nhất, sau đó đi thẳng đến quầy tính tiền.
Mũi và chân mày cô nhân viên tính tiền đều xỏ khuyên, đeo hoa tai, Michael thấy như thế thật chẳng ra gì.
Ra khỏi cửa hiệu, không khí lạnh bên ngoài làm ông dễ chịu hơn nhiều. Siêu thị Công ty Thực phẩm Thế Giới giờ đây quả đang làm ăn phát đạt. Michael bỏ sữa vào cốp xe rồi đứng tần ngần nơi đó, một tay cầm chìa khóa, cứ dây dưa không chịu lên xe. Bỗng nhiên ông nhớ ra việc tiếp theo mình phải làm là đi dạo. Sao lại cố tình trở về khu gần nhà mình đi dạo chứ? Mình có thể tản bộ trên đường Rock mà. Nghĩ đến đây, ông bỏ chìa khóa vào túi, rời khỏi bãi đậu xe.
Bác sĩ kiến nghị Michael mỗi sáng tản bộ 30 phút, ông nhìn đồng hồ, sau đó quay về. Ông không bao giờ đi nhiều, vì tản bộ chẳng phải việc ông thích. Chẳng nghĩ gì cả, Michael chỉ chậm rãi bước đi thôi, nhất là bây giờ, tuổi càng lớn, ông bước đi càng chậm chạp hơn trước. Dáng đi khệnh khạng dường như vang lên trong đầu ông điệp khúc chẳng có ý nghĩa: tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề biết, tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề biết.
Pauline luôn gọi cái chân thọt của ông là “di chứng chiến tranh” và Michael cũng quen với cách gọi này, thậm chí ông nghĩ mình đã từng đích thân trải nghiệm trận chiến nào đó. Dĩ nhiên, thực tế ông chưa một lần tham gia chiến đấu. Khi nào ông mới thoát được cảm giác tội lỗi vì chưa từng ra chiến trận? Trước đây, ông có thể dựa dẫm Pauline. Thật ra, nếu không vì cử chỉ cợt nhả của Pauline, Michael không bao giờ khó chịu với vợ như vậy. Bây giờ, Michael không nghĩ thế nữa: ông là người dễ giận cá chém thớt; ông là người khoanh tay đứng nhìn khi người khác cố gắng làm việc; ông chưa từng ảo tưởng mình sẽ trở thành một anh lính chuẩn mực. Thực tế, ông thấy nếu mình ra chiến trận, khả năng lớn nhất là ông sẽ bị kẻ địch giết chết ngay trận chiến đầu tiên. Vì thế, Michael chưa từng mong muốn mình được ra tiền tuyến, mà ngược lại. Lúc đó, ông khao khát mình có thể sống lâu, để làm cuộc sống của những người mình yêu thương có ý nghĩa hơn, đầy đủ hơn.
Tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề biết, tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề… Michael vẫn tiếp tục lặp lại những câu nói đó, nhưng một chiếc xe tải chạy vù qua đã che khuất tất cả. Ông thấy có lẽ mình đã làm tài xế xe tải hơi căng thẳng: một ông lão đi khập khiễng trên vỉa hè. Ông lão! Nghĩ đến chuyện người khác cũng dùng từ này để gọi mình, Michael thấy rợn người.
Bỗng nhiên Michael chú ý thấy: hình như khi nói chuyện ông có một thói quen, lúc đầu định nói chuyện này, nhưng sau đó ông lại nghĩ đến chuyện khác, và bất giác thay đổi đề tài, cuối cùng thường làm mọi người rối mù. Trong bữa cơm tối hôm qua, ông định nói với Anna: “Bữa tối hôm nay rất ngon”. Kết quả là: “Bữa tối hôm nay rất kỳ quái”. Vài phút sau, ông lại nghe mình bảo: “Bà ngồi xuống nghỉ một lúc, tôi sẽ cất thức ăn vào máy vi tính!”. Ông nghi ngờ phải chăng mình đã bắt đầu đãng trí – một chứng bệnh mà những người có tuổi vừa nghe đã rùng mình.
Lúc này lại vọng đến tiếng còi xe, âm thanh lần này rất vang, làm Michael giật nảy người. Ông khệnh khạng đi vào phía trong vỉa hè vài bước, như thế sẽ cách xa làn xe chạy và an toàn hơn. Bên kia đường chẳng có gì đáng chú ý, nhưng nơi đó có thể đến Elmview Acres.
Bảng hiệu tên đường trông rất cũ nát – trên đó là những đốm gỉ sét, cột gạch thì đầy những vết nước màu lục rong rêu. Khi đi qua đường Rock rẽ vào đường Elmview Drive, Michael kinh ngạc phát hiện cây cối ở đây đã cao thế rồi! Tuy giờ đã là tháng 12, cây đã không còn um tùm, nhưng những căn nhà này – kiểu nhà nông trại giờ chẳng còn thịnh hành – đều được bao phủ bởi sắc xanh. Trước đây khu này chỉ toàn đất trống, nhiều lắm chỉ là những bụi cây nhỏ mới nảy lộc.
Đến ngã tư, Michael rẽ phải, con đường này uốn khúc ngoằn ngoèo. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề… Michael tiếp tục đi về phía trước, trên đường ông thấy một người phụ nữ khoác khăn choàng nỉ ô vuông đang dắt chó đi dạo, còn có một người phụ nữ mặc áo khoác dài đang khom lưng cúi người nhặt mảnh giấy làm rơi.
Dù thế nào, đây vẫn là nơi ông quen thuộc, tuy những người này vẫn chưa chào đời khi ông và Pauline còn ở đường St. Cassian.
Đi thẳng về phía trước dọc theo đường St. Cassian, Michael thấy mình là người may mắn sống sót cho đến nay. Wanda Lipska đã mất năm 1998 vì bệnh tim, con gái của bà, lớn hơn George mấy tháng cũng đã qua đời. Katie Vilna chết vì ung thư phổi, còn Johnny Dimsky chết vì bệnh ung thư gan. Trước đó nữa, là bố mẹ Michael, giờ nghĩ lại cứ như đang xem ảnh cũ bạc màu. Danny, anh trai Michael, vẫn là chàng trai 19 tuổi trong ký ức của ông, dù lúc đó anh ấy không mắc cơn bệnh nặng đấy, đến giờ anh ấy cũng đã về nơi yên nghỉ vĩnh viễn rồi. Cuối cùng, mọi người đều lìa khỏi cõi đời, một ngày nào đó, Michael cũng như họ, dù thỉnh thoảng ông ảo tưởng mình có thể trường sinh bất lão.
Buổi sáng khi có người gọi điện báo Michael biết Pauline đã gặp tai nạn, ông hầu như không thể chấp nhận sự thật này. Ông vẫn có thể nhớ rõ như in hình ảnh của Pauline: trên bờ môi trái tim có hai đốm nhỏ gợi cảm, hai khóe mắt đều mọc lông mi dạng nhánh kỳ lạ. Phải biết rằng vị trí này của những người bình thường đều không mọc lông mi. Mắt bà có màu lam tím, trông thấy đáng tin, hơn nữa lại tràn đầy hy vọng. Ông biết khoảng thời gian họ bên nhau không vui vẻ, nhưng giờ đây lý do khiến họ không vui ông cũng chẳng còn nhớ. Lúc đó vì chuyện gì mà họ tranh cãi không ngừng nghỉ nhỉ? Ông không nhớ nữa. Ông chỉ nhớ có một lần Pauline nổi trận lôi đình, tối hôm đó, hai người ngồi ngủ trên ghế, chẳng ai nói chuyện với ai, lúc này ông có cảm giác tan nát cõi lòng. Nhưng, rốt cuộc là vì chuyện gì?
Dạo trước Lindy nói với ông: “Bố là băng, còn mẹ là thủy tinh. Đây là hai vật chất rất giống nhau, nhưng lại gây ảnh hưởng xấu rất lớn cho nhau và cho con cái”. Lời này được nói ra trong một lần trò chuyện khá sâu sắc giữa ông và Lindy.
Ông nói với Lindy: “Bố xin con, hãy khoan dung chút đi! Bố mẹ đã cố gắng hết sức rồi, đã làm hết khả năng rồi! Bố mẹ chỉ… là những kẻ nghiệp dư trong hôn nhân; tuy nhiên, bố mẹ chưa từng có ý định bỏ cuộc”.
Tôi nghĩ thế, nhưng tôi không hề biết… Michael cứ thế rẽ sang đường Winding, một cây cọ sau lưng làm ông bỗng chốc giật mình. Cây sồi duy nhất ở góc đường Elmview Acres đã bị chặt bỏ, chỉ để lại một gốc cây trơ trọi ở đó.
Có lẽ đấy là đường Elmview Acres trong mắt Pauline. Bỗng nhiên, Michael nhớ đến tiệc họp mặt đầu tiên họ tổ chức vào đầu những năm 70, đó là tiệc cocktail giữa những người hàng xóm, ông vẫn còn nhớ trong buổi tiệc, Pauline kéo ông sang một bên, thấp giọng nói: “Anh chẳng đoán được tiến sĩ Brook vừa làm gì đâu! Ông ấy tay không bốc một nhúm rau và thịt nhét vào miệng đấy!”.
“Ông ta làm thế sao?”. Michael hỏi, Pauline gật đầu, mặt đỏ như gấc vì cố nhịn để không cười ra tiếng.
“Mâm thức ăn trên bàn tự chọn”, cô nói, “chuyện tệ hại nhất là em thấy ông ta cứ làm thế suốt, lẽ ra em nên ngăn lại. Em thấy ông ta vừa nói chuyện với Derbys, vừa dùng tay bốc thức ăn, nhưng em cứ thế ngoảnh mặt bỏ đi!”.
Cuối cùng Pauline cười lên tiếng, vung tay múa chân như một đứa trẻ.
Một lần khác họ cùng đến New York, lúc đó Pagan vẫn chưa chuyển đến sống với họ. Họ men theo cầu thang xuống ga tàu điện ngầm, sau đó Pauline hỏi Michael một đồng xu. Michael trả lời: “Anh vừa cho em một đồng mà”.
“Em biết, nhưng anh cho em thêm một đồng nữa đi”. Pauline nói.
“Vậy đồng xu lúc nãy đâu?”.
“Ừm, em nuốt mất rồi”.
Pauline trả lời. “Em làm gì?”.
“Em lỡ bỏ đồng xu vào miệng, rồi bất cẩn… nuốt mất tiêu. Em nuốt nó đấy, có gì mà anh kinh hãi như vậy?”.
Michael không nhớ lúc đó mình có cười không, nhưng giờ nghĩ lại, ông bật cười.
Hầu như, ông luôn tin Pauline vẫn còn sống trên đời này, bà sống cuộc sống của mình ở nơi nào đó trên thế giới. Dường như ông có thể thấy Pauline trong khu vườn ở ngã rẽ phía trước, bà đang cho chim ăn, hoặc tiện tay nhặt cành cây nhỏ gãy rơi xuống đất. Bà đứng dưới ánh mặt trời, thật khó tin, mặt trời tựa tiết tháng 8, vàng rực ấm áp và hầu như trong suốt tựa cây liên kiều. Khi ông từng bước khập khiễng đi tới, Pauline sẽ dừng việc đang làm, đứng đó chăm chú lắng nghe. Khi thấy Michael tiến gần đến mình, bà sẽ nhắm mắt và đưa một tay ra: “Phải anh đấy không?”, bà luôn hỏi thế: “Đúng rồi! Đúng thật là anh rồi!” bà reo to, mặt tỏa ánh hào quang hạnh phúc…
Michael lại rảo bước nhanh ở khúc quanh phía trước, tựa như có Pauline ở đâu đó đợi chờ mình.
HẾT