Bài-ảnh: Trần Công Nhung
Lần này tôi đi chuyến bay vào phi trường Nội Bài chứ không qua Tân Sơn Nhất. Hai giờ đồng hồ chờ transfer ở phi trường Incheon (Seoul), tôi có dịp dạo xem các gian hàng Duty Free. Thật nguy nga tráng lệ. Những cô gái bán hàng sao mà khéo thế, đã đẹp lại ăn nói có duyên. Ai đã mở lời gạ chuyện thì thế nào cũng dính, không món này cũng món kia. Khách mỗi chuyến bay có phòng đợi riêng, rộng rãi thoáng mát. Ðến giờ lên máy bay đi Nội Bài, tôi nghĩ mình sẽ được gặp các tiếp viên Việt Nam, những cô gái mảnh mai trong chiếc áo dài tha thướt. Một hình ảnh tuyệt đẹp và ý nghĩa mà chỉ con gái Việt Nam (nội địa) mới đủ tư cách thể hiện. Buồn thay, vẫn mấy cô Hàn Quốc, đẹp thì có đẹp mà thiếu uyển chuyển, ý nhị.
Máy bay đáp đúng giờ đã định. Nội Bài có nét mới mẻ nhưng không thể so sánh với Incheon. Nội Bài hơn hẳn Tân Sơn Nhất về cấu trúc và cách vận hành. Khách xuống máy bay, đến phòng hành lý là đã thấy hành lý chạy ra theo hệ thống giây chuyền. Tôi không ngờ nhanh như thế. Chỉ 30 phút tôi đã sẵn sàng để trình giấy ra cửa. Những anh công an Hải Quan trong sắc phục màu lá cây pha cứt ngựa, lúc nào cũng oai nghiêm bệ vệ, không hề thấy một tí cười. Họ nhìn hành khách như nhìn tội phạm. Tôi đã thử chào một vài anh, họ đáp lại bằng ánh mắt lầm lì. Việt Nam được tiếng là hiếu khách, thái độ như vậy có nên chăng.
Cửa ra ở Nội Bài không nhiều nhưng việc kiểm tra hộ chiếu và hành lý chung làm một nên khá nhanh. Có hai cửa đặc biệt, một dành cho nhân viên cán bộ đi công tác, một dành cho phái đoàn ngoại giao. Hai cửa này bỏ trống trong lúc nhiều người sắp hàng dài ở các cửa khác. Lát sau có anh Hải Quan, tướng người phốp pháp, dẫn một gia đình lếch nhếch, đến trình giấy ngay cửa dành cho ngoại giao đoàn. Người khách sau lưng tôi lên tiếng:
– Chắc là gia đình của phái bộ ngoại giao Trung Quốc.
– Trung Quốc nào, Việt đấy.
– Hay vợ con ông lớn ?
– Hẳn thế.
Rồi cũng đến phiên tôi. Sau khi xem qua Passort, người công an hỏi những lời thân mật:
– Bác đi mấy năm rồi ?
– Chỉ mới vài năm thôi.
– Bác về chơi hay có việc gì?
Anh Hải Quan cứ vân vê Passport của tôi và hỏi loanh quanh làm tôi hơi sốt ruột, vì có người đang chờ đón bên ngoài. Tôi trả lời gọn:
– Về chơi.
Thấy không còn gì tra vấn, anh để cho tôi qua.
Hà Nội đang mùa xuân, khí trời mát mẻ. Chiếc taxi đưa tôi và anh bạn đồng hành, về khách sạn Palace ở phố Cửa Bắc. Suốt mấy chục ki-lô-mét đường vắng tanh, vậy mà chốc chốc xe cứ nhận còi.
– Sao anh phải còi trong lúc đường không người?
– Ðể nhắc chừng.
Chúng tôi cười thoải mái. Tài xế Việt Nam quá cẩn thận. Về sau tôi hiểu, đây là do quen tay. Lái xe ở Việt Nam, xe hơi hay gắn máy, đều thi nhau bóp còi mà dường như chẳng ai nghe ai. Có nhiều xe máy gắn còi xe hơi, làm inh tai điếc óc. Lúc xe qua một chiếc cầu mới xây, anh tài xế giới thiệu:
– Ðây là cầu Thăng Long, trước do Trung Quốc làm, công trình đang lở dở thì có vụ choảng nhau năm 79 về sau nhờ Nga làm tiếp.
– Nghe nói hồi đó quân Trung Quốc tràn sang như nước vỡ bờ, rồi làm sao chúng rút lui
– Người thì bảo chúng bị ta nện cho một trận hoảng vía, kẻ thì bảo chúng chỉ dạy bài học nhẹ thôi.
Anh lái xe vui tính làm cho con đường ngắn lại.
Sáng hôm sau, tôi về xem Hội Cổ Loa, ngày 6 tháng giêng âm lịch. Hà Nội đi Cổ Loa khoảng 20 cây số. Từ phố cửa Bắc ra phố Hàng Ðậu, qua cầu Chương Dương, qua cầu Ðuống rồi vào quốc lộ 3. Chạy chừng 4km thì có biển chỉ lối rẽ đi Cổ Loa. Mới tám giờ, người từ các nơi kéo về trẩy hội đông như đi chợ Tết. Mười giờ lễ mới bắt đầu. Tôi mò thăm các đền thờ An Dương Vương, am thờ Mỵ Nương, đình thờ tướng Cao Lỗ. Trước đền An Dương Vương có một hồ lớn thả nhiều hoa súng đỏ, có tượng An Dương Vương đang dương chiếc nỏ thần. Miếu thờ Mỵ Nương không lớn, người vào xem như nêm cối, tôi không tài nào lọt vào được vì còn đai bị trên vai. Ai cũng muốn vào xem tượng chiếc đầu Mỵ Nương. Phải chờ vơi người tôi mới vào bên trong. Miếu thờ ngăn làm hai, ngoài, bàn thờ lễ lạy, đầy đủ tam sự ngũ sự, trong tượng Mỵ Châu không đầu, phủ kín bằng vải vàng. Ðặc biệt khách vào miếu toàn nam nữ, có lẽ tin vào sự linh thiêng của mối tình sử nên rủ nhau đến để cùng thề thốt…
Theo sử, An Dương Vương xây thành Cổ Loa nhiều năm không được vì bị ma quỉ phá, sau nhờ thần Kim Qui cho nhà vua cái móng làm nỏ, bắn một phát giết hàng trăm người. Trừ được yêu tinh, xây được thành, lúc bấy giờ Triệu Ðà bên Tàu mang quân sang đánh, bị thua vì Nỏ Thần. Triệu Ðà lập kế cho con trai là Trọng Thủy lấy Mỵ Châu làm vợ để tráo cắp Nỏ Thần. Lúc Triệu Ðà mang quân sang, An Dương Vương mới biết chiếc nỏ hết linh, bèn cho Mỵ Nượng ngồi chung ngựa chạy trốn về Nam. Chạy mãi vẫn thấy quân giặc theo sau lưng, khi đến núi Mộ Dạ, nhà vua khấn Thần Kim Qui được thần hiện lên bảo :”Giặc ngồi sau lưng nhà vua đấy”. Nhà vua quay lại thấy lông ngỗng do Mỵ Nương rải dọc đường làm dấu cho Triệu Ðà đuổi theo. An Dương Vương nổi giận rút kiếm chém đầu Mỵ Nương rồi nhảy xuống biển tự vận. Về sau tại núi Mộ Dạ có đền Cuông thờ An Dương Vương.
Trọng Thủy đến nơi thấy người yêu đầu lìa khỏi xác, mang về mai táng tại Cổ Loa rồi vì quá thương tiếc Mỵ Châu nên nhảy xuống giếng ở làng Cổ Loa trầm mình. Giếng này thành hồ nước trước Ðền Cổ Loa, gọi là Hồ Ngọc.
Vào đền Cổ Loa, ngang qua một đoạn thành còn sót lại, thành đắp bằng đất, trồng cây phủ kín, hoang phế tựa như lũy Thầy ở Ðồng Hới, không còn dáng vẻ của một cổ thành thời xa xưa nữa. Ðường vào Ðền không được sửa sang, với lượng người trẫy hội như vầy, di chuyển quả thật khó khăn.
Quanh khu vực hành lễ hàng quán la liệt. Một bãi đất rộng, người ta dựng một dàn đánh đu cho dân chúng diễn chơi. Một số ít thanh niên ăn mặc theo lối lính thú đời xưa còn quần chúng cứ quần jeans áo pull chứ không như thời bà Hồ Xuân Hương:
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Lần đầu tôi thật sự được xem cảnh đánh đu, trai gái dạng chân đứng úp mặt vào nhau, co lưng nhún cho cần đu lên cao. Có lúc hai người gần nằm ngang song song với mặt đất. Ðánh đu là hình ảnh lạ nhưng chụp thế nào cho nghệ thuật thì cũng khó. Các sinh hoạt khác quanh bãi đu cũng hay. Ða số là hàng quà bánh, nhang đèn, sản phẩm thủ công bằng gỗ điêu khắc, bằng kim loại nhẹ, bằng nhựa màu… bày la liệt, không theo thứ tự nào hết.
Người đi lễ càng lúc càng đông, di chuyển đã thấy khó, tôi leo lên quả đồi phía hông phải cổng đền. Từ đây bao quát được quang cảnh phía trước. Các vũ công trong y phục màu sắc sặc sỡ. Các bô lão trong lễ phục thụng thện lui tới chuẩn bị làm lễ. Xã Cổ Loa có nhiều Họ, mỗi Họ một đoàn lọng kiệu cờ phướn. Sau khi lễ Ðền, các đoàn sẽ rước Kiệu đi quanh Hồ Ngọc. Sân Ðền đã chật ních, tôi có ý không vào, ở đây chụp đoàn Kiệu là hay nhất. Bổng trên loa phóng thanh oang oang: Chủ Tịch Nước và đoàn Ðại Biểu vào dâng hương lễ Ðền. Tôi ngại vào chỗ gần các quan, không khéo lại rầy rà. Loanh quanh bên ngoài tìm bấm những hoạt cảnh đánh cờ tướng, chân dung các cụ ngồi bán hàng, những cụ bà già khọm chít khăn mỏ quạ hoặc quấn khăn vành giây trông rất hay. Tiếng trống chiêng hành lễ vang rền. Một lát, anh bạn nhiếp ảnh chạy tìm tôi:
– Anh vào trong mà chụp, nhiều cái hay lắm.
Nể lời, tôi chui mãi mới qua được bức tường người dày đến mấy mét. Quả là hay thật, các vũ công trong sắc phục hai màu vàng đỏ, một hàng ngang di chuyển lên xuống theo tiếng trống. Hai bên sân các bà ăn mặc sang trọng với vẻ mặt thành khẩn chiêm bái. Ða số người đi lễ là các cụ ông cụ bà. Thanh niên thanh nữ thì dạo chơi bên ngoài. Tuổi trẻ chỉ nhân cơ hội để hẹn hò chứ lễ bái thì không mấy quan tâm. Lúc lễ gần vãn, tôi ra trước cổng Ðền đón đoàn kiệu. Mỗi đoàn đều có hương án dẫn đầu, cờ phướn, thương đao, lọng kiệu. Ðoàn kiệu di chuyển chầm chậm theo nhịp trống, tưởng chừng như ta đang xem một đám rước mấy trăm năm về trước. Kiệu đi quanh Hồ Ngọc trong khi dưới hồ, một chiếc thuyền quan họ cũng bắt đầu. Trên thuyền có bốn nam bốn nữ. Các cô trong chiếc áo tứ thân, trong đỏ ngoài nâu thật duyên dáng, đầu chít khăn vành giây, thuyền đi người hát, lời ca, giọng hát có lúc thật ai oán cảm động, tưởng như lời thở than của Trọng Thủy Mỵ Châu. Thuyền chèo sát bờ, khách xem ném tiền thưởng vào một cái mẹt lớn. Trong bọn có cô tuyệt đẹp, cô đào chính, lúc nào nụ cười cũng nở trên môi. Tôi canh máy một nơi có ánh sáng chếch chờ thuyền đến là bấm. Phải bấm nhiều lần mới chắc. Một cậu đứng cạnh thấy vậy hỏi:
– Bác chụp nhiều nhỉ?
Tôi cười:
– Càng đẹp càng khó chụp.
Người thanh niên nheo mắt:
– Bác khớp à?
– Không phải thế nhưng chụp nhiều cho chắc ăn. Người đẹp ít khi gặp lắm.
Kiệu rước một vòng hồ thì thuyền cũng đã chèo qua mấy lượt. Khách xem đứng nghẹt bờ hồ. Vừa để nghe hát vừa để ngắm các cô đào. Chỉ có những dịp hội hè mới tập trung nhiều người đẹp, ngày thường, dễ gì.
Trong lúc tôi đang đưa máy theo dõi con thuyền thì một cơn gió mạnh thổi qua hất tung mẹt tiền. Tiền bay tứ tán, các cô vội bỏ hát khom lưng nhặt tiền nổi trên mặt hồ. Cô quan họ đẹp nhất, nhăn mặt bất mãn la lối các bạn. Lúc bấy giờ tôi mới thấy rõ cái tệ hại lúc con người tức giận. Khuôn mặt xinh tươi vậy mà bổng chốc úa héo thê thảm. Một người nào đó la to: “Vui lên cười lên”. Chẳng ai thèm nghe, tất cả họ loay hoay với mẹt tiền. Chẳng còn để ý gì đến nghệ thuật nữa.
Mãi một lúc lâu, tiếng hát mới tiếp tục. Nhưng tôi không còn hứng, mà các “Liền Anh Liền Chị” cũng miễn cưỡng thấy rõ nên chẳng còn gì hay. Tuy nhiên, hình ảnh máu sắc ngày hội thì đầy khắp mọi nơi, nhìn chỗ nào cũng bấm máy thật sướng tay. Ðã là hội hè lễ tết là phải ngay trên quê hương, phải là Lễ Hội thật sự, từ cảnh vật đến con người, có vậy mới khơi dậy lòng nô nức nơi người xem.
Quá mười hai giờ chúng tôi vội tìm đường rút nhưng không tài náo có lối ra. Ngồi xuống hàng nước của bà già cạnh chỗ gởi xe, tôi hỏi thăm:
– Lễ năm nay đông thật cụ nhỉ!
– Ðã đông mấy đâu, hai năm mới có một lần lớn.
– Mỗi lần có hội, bà con có dịp kiếm khá tiền.
– Xem thế chứ xã em chả có gì, giữ xe bán vé đều do Sở Văn Hóa cả.
Uống mấy cốc nước rồi mà lối ra vẫn kẹt cứng, nếu đợi thì có khi phải đến chiều. Anh bạn dẫn đường chạy quanh hỏi tìm lối về. Có người chỉ cho cách đi xuyên làng ra đường cái. Tuy có vòng vèo xa một chút nhưng vẫn hơn ngồi chờ. Xã Cổ Loa đặc biệt là các con đường hẻm. Những con hẻm lát gạch, rộng hơn mét, gãy khúc quanh co, hai bên tường lở lói một cách rất nghệ thuật. Ðối với con nhà cầm máy thì đây là hình ảnh đích thực của quê hương. Quê hương qua cả một dòng lịch sử dài.
Tháng giêng là tháng ăn chơi, xưa nay câu nói cửa miệng là thế, nhưng chỉ ở miền Bắc mới thật đúng nghĩa. Già trẻ lớn bé, trai tài gái sắc đua nhau trẩy hội. Cứ xem hình ảnh trong những ngày xuân hội hè, không ai nghĩ đất nước đang được xếp hạng nghèo đói nhất thế giới.
Tin sách
Sách Quê hương qua ống kính bộ 16 tập (discount 50% 11 tập đầu). Ðã có 2 tác phẩm mới: Vào Ðời (350 trang), Tình Tự Quê Hương (250 trang) xin liên lạc tác giả:
email: trannhungcong46@gmail.com,
(816)988-5040, hoặc add:
1209 SW. Hopi St.
Blue Springs, MO. 64015 (USA)