Một Chuyện Ma

Phạm Thành Châu

Cuối năm 1972, tốt nghiệp ngạch đốc sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, hắn được bổ về làm phó quận hành chánh quận Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Thời đó, chiến sự vùng hỏa tuyến rất sôi động, nhưng chỉ trên dãy Trường Sơn, các quận dưới đồng bằng đều yên tĩnh, nhưng là sự yên tĩnh đáng ngờ. Từ Trường Sơn xuống đồng bằng, việt cộng chỉ đi mấy tiếng đồng hồ là đến nơi.

Quận Phong Điền cách thành phố Huế độ ba mươi cây số. Từ Huế đón xe đò Huế – Phong Điền, theo quốc lộ Một ra hướng bắc, khoảng ba mươi cây số là đến Phong Điền. Ngày đầu tiên đi nhận nhiệm sở, hắn lên xe đò từ sáng sớm, đến trưa mới đến nơi. Xe đò là những xe quân đội (thường là xe “Đốt Cách” Dodge 4×4) từ thời đệ nhị thế chiến phế thải ra. Xe chạy hết bốn tiếng đồng hồ trên quãng đường chưa đến ba mươi cây số. Xe chạy rất chậm lại còn ngừng dọc đường đón khách, đa số là những người buôn bán. Họ đem nông sản về Huế bán rồi mua hàng hóa về các chợ thôn quê. Hắn ngồi ghế trước, cạnh tài xế để tiện hỏi đường và ngắm phong cảnh. Quốc lộ Một chạy qua những thôn làng, những cánh đồng. Bên trái là đồi núi, bên phải là ruộng hoặc nhà đồng bào. Càng ra hướng bắc, đất đai càng cằn cỗi, toàn cây dại mọc trên cát đá.

Xe chạy quá quận đường một quãng thì ngừng lại cho hắn xuống.

Khi được báo tin, thiếu tá quận trưởng, từ văn phòng, bước ra, cười hề hề, đưa tay ra bắt.

– Ông phó đây hả?

– Vâng, chào thiếu tá. Tôi tên Lân.

– Mời ông vào.

Hắn theo quận trưởng vào văn phòng. Đó là một căn phòng rộng, có một cái bàn, trên để giấy tờ, công văn. Trước bàn có đặt một bàn nhỏ, để tiếp khách, với bốn ghế xa lông đóng bằng gỗ tạp, lấy từ những thùng gỗ đựng đạn đại bác. Chẳng có trà nước tiếp khách gì cả. Biết hắn mới ra trường, tay quận trưởng trình bày tỉ mỉ tình trạng của quận.

– Bây giờ tôi sẽ cho mời mấy sĩ quan bên chi khu và bên cảnh sát cùng ra quán uống cà phê, để giới thiệu ông phó mới với họ. Thứ hai tuần sau có họp xã ấp tại quận, tôi sẽ giới thiệu ông với cán bộ xã ấp để tiện làm việc. Thời buổi chiến tranh, chẳng có lễ lạc bàn giao thêm phiền, vả lại quận không có ngân sách riêng, tài sản chỉ có bàn ghế, văn phòng phẩm linh tinh, ông phó ký biên bản bàn giao nhiệm vụ là xong. Đối với đồng bào, chính phủ không thu thuế điền thổ (ruộng vườn) nên xã ấp nhờ vào ngân sách tỉnh yểm trợ. Lương hướng cán bộ chẳng bao nhiêu. Khi có thì giờ, họ cày cấy, trồng trọt, ban đêm theo nghĩa quân, nhân dân tự vệ canh gác, bảo vệ an ninh cho đồng bào. Ông phó trước đi nhận nhiệm sở mới, mấy tháng nay chưa có người về thay, nay có ông giúp tôi về hành chánh thì tôi cũng được rảnh tay mà lo việc khác. Về sinh hoạt, ông phó ăn uống với tôi, một nghĩa quân sẽ lo việc đi chợ nấu nướng. Buổi tối, có một căn phòng ngay sau văn phòng ông phó, dùng làm phòng ngủ. Phòng nầy được chất bao cát chung quanh và trên trần để chống pháo kích. Vấn đề bây giờ là phải tìm phương tiện cho ông đi về các xã ấp. Mấy ông phó trước có xe gắn máy, tôi biết ông mới ra trường, chưa dành dụm được để mua xe gắn máy. Mà độc thân như mấy ông, lương hướng chỉ đủ về Huế trả tiền nhà trọ, đi xem phim, mua sách báo, ăn uống, cà phê cà pháo với bạn bè. Ông nào có vợ mới biết tiết kiệm. Về Huế mỗi cuối tuần, mà ông đi xe đò thì coi như hết một ngày rồi. Hiện nay quận có một chiếc xe jeep hư cũ, có lẽ từ ông tri huyện, thời Pháp thuộc để lại, tôi sẽ nhờ ông thợ sửa máy cày dưới chợ đến xem có giúp sửa chữa được gì không? Ông thợ nầy rất giỏi mà lấy công lại rẻ nữa.

Lần đầu đi nhận nhiệm vụ mà được một tay quận trưởng tốt bụng giúp đỡ thì hắn cũng thấy yên tâm. Về công việc hành chánh, nhân viên các ban ngành, tuy trình độ pháp lý kém nhưng kinh nghiệm thì nhiều. Họ biết rõ từng xã ấp trong quận, từ vấn đề an ninh, nhân sự đến các tập tục, các dòng họ, các lề thói mỗi thôn xã riêng. Câu phép vua thua lệ làng, ở nông thôn miền Trung vẫn còn là điều cần lưu ý. Ông xã trưởng, ấp trưởng được dân bầu lên, có chính quyền, luật lệnh quy định, nhưng các ông trưởng tộc, các ông phụ lão trong làng mới là những người có ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt cộng đồng thôn xã. Một “quận hành chánh” phải phụ trách mọi việc liên quan đến giấy tờ, điều hành các ngành chuyên môn, xã, ấp mà chỉ có năm ba nhân viên với vài cái máy đánh chữ và một ông tống văn thư đi xe đạp… Vậy mà mọi việc trong quận chạy đều, hiệu quả, chính xác, khiến hắn ngạc nhiên. Vì thế mà các tổ chức nghiên cứu quốc tế đánh giá Việt Nam Cộng Hòa thời đó có một nền hành chánh công quyền hiệu năng nhất Đông Nam Á. Có lẽ tình trạng chiến tranh khiến cho công chức, cán bộ địa phương phải làm việc theo kiểu quân đội. Lúc nào cũng phải nắm vững tình hình, có lệnh là thi hành ngay.

Về chiếc “công xa” cho ông phó quận, không ngờ được giải quyết nhanh chóng. Đó là nhờ vào tài nghệ của anh thợ sửa máy cày. Chiếc xe cũ kỹ đến độ mỗi con ốc phải dùng đục, búa gõ cả buổi mới ra. Chỉ một tuần sau, chiếc xe nổ máy, tuy tiếng kêu cũng không thua chiếc máy cày Kubota bao nhiêu. Bốn cái bánh được thay bằng bánh xe nhà binh phế thải mà tay quận trưởng phải lên quân vận xin mới có, nhưng cái trần xe thì không có tiền mua. Thế nên phải giữ lại cái trần xe với một lỗ trống hoác phía trên, người ngồi trong xe, nếu mặc áo đi mưa khi trời mưa thì cũng không sao. Nhờ có phương tiện di chuyển, hắn về Huế, lò dò đến Tổng Hội Sinh Viên Huế, Hội Hồng Thập Tự Thừa Thiên-Huế, Caritas (cứu trợ Công Giáo), xin đoàn công tác ra các xã ấp, khi thì khám bịnh, phát thuốc, khi thì tặng quà, gạo, bột dinh dưỡng, áo quần, mùng mền, khi thì đắp đường, sửa nhà cho đồng bào nghèo, bày trò chơi, tập hát cho lũ trẻ… Ông phó quận (là hắn) lái xe về xã ấp hội họp, dự lễ cúng đình, cúng làng, coi thật long trọng. Hơn nữa khi một chiếc xe hơi chạy trong làng, trên đường quê là một hiện tượng đáng cho trẻ con chạy theo sau xe, reo hò, đáng để cho người đang làm việc đồng áng nghỉ tay ít phút đứng nhìn giải trí. Ông phó dừng xe, bước xuống xe trông oai hơn, tư cách hơn các ông phó trước đây đi xe gắn máy. Nhưng mỗi cuối tuần, hắn lái chiếc xe cà tàng đó về Huế thì cả thành phố để ý ngay. Chiếc xe bạc màu, “trầy vi, tróc vảy” lại thêm cái trần thủng với tiếng máy nổ toan toác (bể ống bô), chỉ chạy một vòng lên xuống đường Trần Hưng Đạo (đường phố chính), là ai thấy đều ngạc nhiên, hỏi nhau về nguồn gốc chiếc xe và người lái nó. Đó là điều hắn không ngờ. Khi hắn đi bộ, mấy bà bán hàng đều liếc xem, tên khùng nào dám lái chiếc xe như thế trong một thành phố cổ kính, với người dân ưa bình luận chuyện thiên hạ và sĩ diện hão.

Một buổi tối thứ bảy, hắn đi xem phim. Vì phim quá dở, hắn bỏ đi ra, lên xe, lái về nhà trọ trong thành nội, nhưng khi xe chạy đến khoảng trước cửa Thượng Tứ thì hắn thấy một cô gái mặc đồ trắng, đội nón đứng bên đường ngoắc tay ra dấu với hắn. Hắn tấp xe vào.

– Cô gọi tôi phải không?

– Dạ phải.

– Cô cần gì tôi?

– Em xin anh cho quá giang về nhà.

– Nhà cô ở đâu?

– Dạ, trên Kim Long.

– Mời cô lên xe.

Hắn vẫn chưa cho xe chạy.

– Tôi hỏi cô điều nầy. Con gái Huế giờ nầy mà dám đón xe quá giang một người lạ. Sao cô không đón xích lô mà đi?

– Em đứng đón xích lô đó chứ. Mạ em sai em đi công chuyện, nhưng lâu quá, sợ về trễ mạ la, thấy xe anh, em xin quá giang.

– Cô biết tôi là ai mà cô dám đón xe tôi?

Cô gái nhìn hắn cười, hai con mắt sáng lên vừa như thân mật vừa tinh quái.

– Anh lái chiếc xe nầy, ai mà không biết anh. Anh tên Lân, phó quận Phong Điền, quận trưởng là thiếu tá Tôn Thất Bá. Ông ta là em của mạ em, cậu tụi em. Mấy lần anh đi với cậu Bá trên đường Trần Hưng Đạo, em ngồi trong tiệm thấy, nên biết anh.

Hắn nhìn cô gái, tuy cô đội nón và ánh đèn đường tù mù nhưng hắn cũng thấy cô gái đẹp một cách rất Huế. Mặt trái xoan, tóc dài, hiền lành, đoan trang.

– Cậu em khen anh đàng hoàng.

– Cám ơn cô. Vậy là cô biết hết về tôi, nhưng cô tưởng tôi đàng hoàng là cô lầm to! Tôi vẫn không hiểu, vì sao chưa quen biết mà cô dám đón xe tôi để quá giang. Không cô gái Huế nào dám làm như vậy cả.

– Anh nói chi lạ rứa? Em đón xe xích lô đâu cần quen biết với ông đạp xích lô. Anh dám âm mưu gì với em không?

– Tôi chịu thua cô. Xin lỗi. Cô đừng giận tôi.

Cô bật cười, giọng người lớn.

– Tha cho đó!

Hắn cởi áo đi mưa đang mặc trao cho cô gái.

– Cô mặc vô. Khi tôi chạy xe, mưa tạt ướt hết.

– Bộ anh không sợ mưa sao? Mưa ướt lạnh chết!

– Nếu tôi không nhường áo cho cô, cô sẽ khinh tôi là thằng con trai bần tiện, ích kỷ ngay.

– Đúng rồi! Anh mà làm vậy em thất vọng về anh nhiều lắm.

Hắn cho xe chạy. Trong lúc trò chuyện, cô cho biết đang học đệ nhất trường Đồng Khánh. Hắn hỏi cô có mấy anh chị em? Cô bảo chỉ có hai chị em thôi. Cô tên Khánh Trang, cô em tên Hiển Nhơn, đang học đệ nhị. Hắn nói mấy câu tán tỉnh, đại ý, gặp một người đẹp như cô mà không làm quen là dại, cô chỉ cười mà không nói gì.

Xe qua cầu Bạch Hổ, chạy thêm một quãng ngắn nữa thì cô gái ra dấu dừng lại.

– Nhà em ở đây.

Cô định cởi trả áo đi mưa nhưng hắn bảo.

– Cô cứ mặc, kẻo ướt, vô nhà mạ la. Tôi mà nhận lại ngay bây giờ, thì uổng công tôi quá!

Cô gái xuống xe, nhìn hắn, nhờ ánh đèn xe, hắn thấy cô cười.

– Sáng mai anh ghé nhà em lấy áo đi mưa, em sẽ chờ anh. Cám ơn anh.

– Cô nói câu đó là cô biết âm mưu của tôi rồi. Tôi cám ơn cô mới phải.

– Chào anh. Nhớ sáng mai, em chờ.

– Tôi xin đến lúc chín giờ sáng mai. Được không cô?

– Dạ được!

Khi cô bước khuất vào cổng nhà, hắn vẫn còn dừng xe, để nhận diện cái cổng nhà đồ sộ, kiểu cổ, đen xỉn vì thời gian. Hắn đoán gia đình cô thuộc danh gia vọng tộc ngày xưa nên mới có ngôi nhà với chiếc cổng lớn như thế. Khi chạy tới để kiếm cách trở đầu xe, hắn mới biết rằng, có nhiều ngôi nhà cũng với chiếc cổng đồ sộ tương tự. Một bên đường là vách tường chạy dài, một bên là sông Hương gió thổi với mưa phùn lạnh cóng. Khi lên đến chùa Thiên Mụ, hắn mới tìm được chỗ quay xe lại.

Sáng hôm sau, vào ngày chủ nhật, hắn diện áo quần tươm tất, chải đầu soi gương rồi lên xe đến nhà người đẹp. Hắn dừng đúng chiếc cổng khi hôm, nhưng để chắc ăn, hắn xuống xe, chờ một người đàn bà đi tới và hỏi.

– Phải nhà nầy có hai cô gái đẹp. Phải không chị?

Chị đàn bà vui vẻ.

– Đúng rồi. Anh vô đi. Qua khỏi cái bình phong là anh thấy nhà. Anh vô gặp cô Hiển Nhơn phải không?

– Tôi vô thăm cô chị.

Chị đàn bà trợn mắt lên, kinh ngạc.

– Anh đi thăm cô Khánh Trang? Anh cứ vô đi thì biết. Nhưng nhớ gõ cửa nhà ngang mới có người. Anh mà gõ cửa nhà giữa…Thôi anh vô đi.

Hắn bước qua cổng thì có một bình phong lớn ngăn lại, khiến hắn phải theo lối mòn phía bên trái, có hàng rào bằng cây chè tàu hai bên. Đi một quãng nữa, hiện ra một ngôi nhà ngói dài, xây trên một nền nhà cao bằng đá, mái nhà thấp tè, rêu phong, cửa gỗ, đóng im ỉm. Theo lời chỉ dẫn của chị đàn bà, hắn bước đến nhà ngang. Căn nhà nầy cao ráo, xây theo kiểu mới. Hắn gõ cửa. Cánh cửa hé ra. Một người đàn bà, tuổi trên năm mươi, gương mặt thanh tú nhưng nghiêm trang, hỏi hắn.

– Cậu hỏi ai?

– Xin lỗi có phải đây là nhà cô Khánh Trang không ạ?

Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng mở cửa.

– Vâng, mời cậu vô nhà.

– Cám ơn bác.

– Mời cậu ngồi. Cậu hỏi Khánh Trang có chuyện chi không?

– Dạ, cháu quen với Khánh Trang. Cháu chỉ đến thăm thôi.

– Cậu quen với Khánh Trang bao lâu rồi?

– Dạ, chỉ mới khi hôm. Cháu cho Khánh Trang mượn áo đi mưa, Khánh Trang có dặn sáng nay đến nhận lại.

Người đàn bà rót trà mời hắn.

– Mời cậu dùng trà. Tôi vừa pha trà cúng Phật. Cậu quen với Khánh Trang trong trường hợp nào. Áo đi mưa của cậu màu gì?

Nghe mấy câu hạch sách, mà không được người đẹp đón tiếp, hắn phát nản, định trả lời vài câu qua loa rồi rút lui.

– Dạ, lúc tối, cháu gặp Khánh Trang trước cửa Thượng Tứ. Khánh Trang nhờ cháu đưa về đây. Cháu có cho cô ấy mượn áo đi mưa màu đen, cô ấy hẹn sáng nay đến nhà, cô sẽ trả lại.

– Sáng nay tôi không thấy chiếc áo đi mưa nào khác cả. Lúc nãy con Hiển Nhơn ra tiệm vẫn mặc chiếc màu trắng. Chẳng phải tôi khó khăn gì với cậu mà không cho cậu gặp Khánh Trang, nhưng xin cậu kể tỉ mỉ chuyện cậu gặp nó như thế nào, hai người đối đáp ra sao? Khánh Trang nói chuyện gì với cậu? Nó mượn áo đi mưa ra sao? Xin cậu bình tĩnh. Cậu kể ra tôi mới biết chắc là cậu có gặp Khánh Trang. Vì có thể là người khác xưng là Khánh Trang để chọc ghẹo cậu cũng nên.

Hắn đành ngồi nán lại và kể tỉ mỉ từ đầu đến cuối câu chuyện. Người đàn bà nghe xong, đứng lên, bảo hắn.

– Cậu theo tôi. Tôi chỉ cho cậu xem, có phải người cậu gặp lúc tối, đúng là Khánh Trang không?

Người đàn bà bước xuống thềm, đi vòng ra sau nhà, hắn đi theo, không hiểu đi đâu? Sân trước đã âm u, sau vườn thì như một khu rừng. Cây cối rậm rạp, um tùm, toàn là cây ăn trái. Ổi, mãng cầu, mít, mận…Tuy có một lối mòn, nhưng hai người nhiều lúc phải cúi xuống dưới một cành cây hay dùng tay rẽ lá mới bước đi được. Một tia nắng mai lẻ loi chợt sáng lên, mấy giọt nước mưa còn đọng trên lá long lanh khiến khu vườn vừa nên thơ vừa bí ẩn. Hắn nghĩ đến chuyện Liêu Trai. Một ngôi nhà cổ bỏ hoang, một khu vườn rậm, đầy cỏ dại… Có một bầy hồ ly tinh kéo đến ở. Chúng biến thành những cô gái rất đẹp để dụ dỗ một cậu học trò trọ học nhà bên cạnh.

Hắn thấy có gì bất thường đây. Nếu không phải cô Khánh Trang thì là ai? Có thể là cô em?

– Tối qua bác có sai cô Hiển Nhơn đi đâu không?

– Không. Khi hôm con Hiển Nhơn đi ngủ sớm. Tôi không sai nó đi đâu cả. Mà nó có đi đâu thì dùng xe gắn máy trong nhà, đâu cần phải đi xích lô hay quá giang xe cậu.

Người đàn bà dừng lại. Trước mặt hắn, có mấy ngôi mộ ở một góc vườn. Toàn là những ngôi mộ cũ kỹ, rêu phong, chỉ một ngôi rất mới, xây theo kiểu tân thời, có mái che, có tường thấp vây quanh. Người đàn bà bước đến ngôi mộ đó, hắn bước theo.

– Đây rồi. Áo đi mưa của cậu đây. Tôi đoán đúng mà!

Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống hắn. Áo đi mưa màu đen của hắn phủ lên ngôi mộ, trông giống như chiếc mền đang đắp cho một người nằm ngủ.

– Cậu nhìn thử hình trên mộ bia, có giống người cậu gặp tối qua không?

Hắn sợ đến nghẹn thở, nhưng cũng gắng bước đến nhìn vào tấm hình in trên mộ bia.

– Dạ, đúng rồi. Đúng cô nầy đây. Cháu thấy gương mặt, mái tóc, đôi mắt…đúng y như cô lúc tối.

Người đàn bà cúi xuống cầm lấy chiếc áo đi mưa, trao cho hắn.

– Cậu nhận lại áo…

– Thôi, cháu không dám đem về. Cháu ngán quá! Cứ để cho cô ấy dùng, khỏi phải đón đường mượn áo người khác. Khi hôm cháu có tán tỉnh cô ấy mấy câu. Có sao không bác?

Người đàn bà cười.
Không sao đâu. Nó chỉ chọc ghẹo người ta thôi chứ không hại ai cả. Khi còn sinh thời, Khánh Trang hiền lành và nghiêm trang lắm. Sau khi mất, nó lại hoang nghịch hơn cả con em nó nữa. Cậu biết, thỉnh thoảng, buổi tối Khánh Trang thường hiện lên trước cổng, đi hỏng hai chân, có khi bay từ ngọn cây nầy sang ngọn cây khác. Người đi đường sợ lắm, nhưng chẳng ai bị gì cả. Để tôi đốt nhang, cậu khấn vái mấy câu thì nó sẽ không cho cậu gặp nữa. Cậu yên tâm.

Phạm Thành Châu

Xem thêm

Nhận báo giá qua email