MC Nguyễn Văn Bảo, bút hiệu Con Cò
MC Hoàng Ngọc Khôi, bút hiệu Hoàng Xuân Thảo
MC Nguyễn Đương Tịnh, bút hiệu Trúc Cư
Mùa xuân với khí hậu tươi mát, cây cỏ xanh tươi, trăm hoa đua nở, rất được thi nhân ưa thích. Tuy nhiên, sắc thái của thơ xuân rất khác biệt tùy theo từng tác gỉa. Mời các bạn thưởng thức 10 bài thơ xuân của 8 thi hào đời Đường sau đây ( phần lời bàn của Con Cò rất cần để thấu hiểu cả bài thơ nguyên bản và bài thơ dịch)
Lý Bạch
1/ Xuân Tứ
Yên thảo như bích ti
Tần tang đê lục chi
Đương quân hoài qui nhật
Thị thiếp đoạn trường thì
Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi
Chú giải:
Yên&Tần: chàng đang ở đất Yên, thiếp đang ở xứ Tần
Nghĩa xuôi của hai câu chót: gío xuân (tượng chưng cho niềm vui) chẳng hiểu lòng nhau, vô cớ lọt vào màn the làm gì? (lòng ta đang buồn, không thiết đón gío xuân)
Dịch thơ
Xuân Tứ
Cỏ Yên như tơ xanh
Dâu Tần khoe cành biếc.
Chàng mong mỏi về nhanh,
Lúc thiếp buồn da diết.
Gió xuân chẳng thấu tình,
Lọt màn the ghẹo thiếp.\
Lời bàn của Cn̉a Con Cò
Bài thơ thể ngũ ngôn lục cú, niêm luật ít gò bó nên ý tứ được phô diễn rất phóng khoáng:
Chàng đang ở đất Yên. Thiếp thì ở đất Tần. Lúc chàng mong về nhà thì thiếp cũng đang nhớ chàng vô cùng. Xuân về cây cỏ xanh tươi nhưng thiếp đâu thèm ngắm. Còn gã gió xuân kia, tuy mi hiền hòa, dịu ngọt nhưng lúc này ta chỉ nhớ đến chổng ta thôi. Nếu chồng ta có nhà thì ta vui vẻ đó́n mi vào chung vui. Nhưng bây giờ chồng ta đi vắng, mi lọt vào màn the của ta để làm gì? Cò phải dùng từ ghẹo mới dịch hết nghĩa của câu siêu việt này.
Vì nguyên bản là ngũ ngôn lục cú (niêm luật ít gò bó) nên bài dịch không giữ vần bằng trắc như nguyên bản. Ý và lời thì vẫn theo sát nguyên bản.
2/ Tử Dạ Xuân Ca
Tần địa La Phu nữ,
Thái tang lục thuỷ biên.
Tố thủ thanh điều thượng,
Hồng trang** bạch nhật tiên.
Tàm cơ thiếp dục khứ,
Ngũ mã*** mạc lưu liên.
Chú giải của Hoàng Xuân Thào
*Tử Dạ là một cô gái đời Tấn, thời Lục Triều, với nhiêu cuộc chinh chiến. Tử Dạ nổi tiếng vì tự làm ra các bài dân ca được lưu truyền trong dân gian với hai chủ đề chính: tình dang dở của người con gái và tình cảm của những chinh phụ mong nhớ chinh phu ngoài chiến trường. Tử Dạ được đời hâm mộ nhất là bài Tử Dạ Xuân Ca và bài Tử Dạ Thu ca.
**Hồng trang: má hồng
***Ngũ mã: Xe có 5 ngựa kéo. Xe có 5 ngựa kéo là xe của quan Thái Thú. Làm tới Thái Thú thì đã qúa già, có lẽ chàng này là công tử, con của Thái Thú.
Dịch nghĩa
Bài hát mùa xuân của nàng Tử Dạ
Người con gái La Phu đất Tần
Hái dâu bên dòng nước xanh
Bàn tay trắng ngần vịn vào nhành cây xanh
Ánh nắng mặt trời chiếu trên má hồng
“Tằm đói rồi thiếp phải chạy về nhà
Xin ngài (người đi xe năm ngựa kéo) đừng ở lại lâu”.
Dịch thơ
Bài Ca Xuân Cùa Nàng Tử Dạ
Gái Tần La Phu đẹp
Hái dâu bến nước xanh
Tay măng vin cành biếc
Nắng ghẹo má hồng xinh
” Thiếp xin về tằm đói
Chàng ở lại sao đành”
Lời Bàn Của Con Cò
Bài này duyên dáng vô cùng, dịch sát nghĩa từng chữ có thể khô khan hoặc ngây ngô. Toàn bài dàn xếp giống một màn kịch thơ. Vậy thì hãy thuật lại màn kịch này thành văn xuôi rồi dịch thoát.
Có một công tử tuấn tú, ngổi trong một cỗ xe có 5 con ngựa kéo (Xe 5 ngựa là xe của quan Thái Thú (chàng này là công tử con quan Thái Thú). Trên đường du xuân, chàng dừng xe tán tỉnh cô gái hái dâu trên bến nước xanh. Cô gái này cao tay lắm. Cô khai triển hai bàn tay nõn nà có những ngón búp măng trên cành dâu xanh biếc và để cho ánh nắng nhảy nhót trên má hồng.
Cuộc đối thoại phong phú của hai người chỉ vỏn vẹn có 2 câu:
Câu 5: Thiếp phải về nhà cho tằm ăn kẻo chúng đói. Lý do chính không phải vậy đâu. Nàng chỉ muốn viện cớ đó để dụ chàng về nhà (ý này nằm trong câu 6)
Câu 6 rất khó dịch cho sát nghĩa vì nó qúa cô đọng. Nghĩa của câu nguyên bản: Xin chàng công tử cỡi cái xe 5 ngựa đừng ở lại đây lâu. Nàng muốn nói rằng: “Công tử chàng ơi! Cái bãi dâu này chả đáng cho chàng dừng ngựa đâu. Chàng đã dừng lại vì em. Vậy thì sau khi em về cho tằm ăn, chàng còn nán lại đây làm chi, hay là chàng theo em về nhà nhé!” Một câu có nghĩa phức tạp và tế nhị như vậy, lại phải cho hợp vận, thì làm sao dịch nổi với một câu 5 chữ. Đành phải dịch thoát bằng câu: Chàng ở lại sao đành.
Đỗ Phủ
3/ Xuân dạ hỉ vũ
Hảo vũ tri thì tiết,
Đương xuân nãi phát sinh.
Tuỳ phong tiềm nhập dạ,
Nhuận vật tế vô thanh.
Dã kính vân câu hắc,
Giang thuyền hoả độc minh.
Hiểu khan hồng thấp xứ,
Hoa trọng Cẩm Quan thành.
Dịch nghĩa
Đêm xuân mừng mưa
Mưa lành biết được tiết trời
Đang lúc xuân về mà phát sinh ra
Theo gió hây hẩy vào đêm tối
Tưới mát muôn vật mà không nghe tiếng
Đường quê đầy mây âm u
Thuyền trên sông chỉ thấy lửa sáng
Sớm mai trong vùng ẩm ướt đỏ thắm
Hoa nở đầy cả thành Cẩm Quan
(Năm 761)
Dịch thơ
Đêm xuân mừng mưa
Trời tốt mưa lành tới.
Xuân về làm mưa rơi .
Mưa vào đêm theo gió,
Thầm quạt mát cho đời.
Đường quê mây giăng mắc.
Thuyền sông lửa sáng ngời.
Mưa tô hồng đất ẩm:
Hoa nở Cẩm Quan tươi.
Lời bàn của Con Cò
Bài này là một tuyệt chiêu: sáng sủa, vui tươi, gợi hình. nhân cách hóa cho mưa tác phúc. Bài dịch dùng những từ tương xứng để dịch những điểm vừa kể:
Chữ làm trong câu 2: xuân làm ra mưa
Chữ vào trong câu 3: mưa đi vào trong đêm
Chữ quạt trong câu 4: mưa âm thầm quạt mát cho đời
Chữ tô trong câu 7: mưa tô hồng cho đất ẩm (giúp hoa nở ở câu dưới).
4/ Xuân Vọng
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.
Dịch nghĩa
Ngóng cảnh xuân
Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
Như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.
Dịch thơ
Ngóng Cảnh Xuân
Núi sông còn nước mất
Thành xuân cây cỏ hoang
Thương thời hoa đẫm lệ
Hận biệt chim bàng hoàng
Lửa báo* liền ba tháng
Thư nhà đáng ngàn vàng
Tóc bạc thêm thưa ngắn
Nên chẳng thể cài trâm.
*Lửa đốt trên những đài cao cách nhau vài dặm để chuyền nhanh tin cho nhau báo hiệu có giặc tới.
Lời bàn của Con Cò
Bài thơ này gõ đúng tâm trạng của những người sống lưu vong.
Bạch Cư Dị
5/ Xuân đề hồ thượng
Hồ thượng xuân lai tự hoạ đồ,
Loạn phong vi nhiễu thuỷ bình phô.
Tùng bài sơn diện thiên trùng thuý,
Nguyệt điểm ba tâm nhất khoả châu.
Bích thảm tuyết đầu trừu tảo đạo,
Thanh la quần đái triển tân bồ.
Vi năng phao đắc Hàng Châu khứ,
Nhất bán câu lưu thị thử hồ.
Dịch nghĩa
Mùa xuân đề thơ trên hồ
Xuân về, cảnh hồ như một bức tranh
Núi lô nhô vây quanh mặt nước phẳng lặng
Những hàng thông trên mặt núi trập trùng xanh ngắt
Ánh trăng rọi vào lòng sóng thành hạt ngọc châu
Lúa sớm trổ bông, như những sợi trên tấm thảm biếc
Lá bồ mới nảy, như những dải quần lụa xanh
(Ta) chưa bỏ Hàng Châu đi ngay được
Một nửa vì bịn rịnh cảnh hồ này.
Dịch thơ
Mùa xuân đề thơ trên hồ
Xuân đến trên hồ giống bức tranh
Núi non vây mặt nước như thành
Ngàn thông trên núi khoe màu lục
Sóng vỗ trong trăng tưởng ngọc quỳnh
Lúa sớm trổ bông như thảm biếc
Bồ non phơi lá giống quần xanh
Hàng Châu chưa nỡ rời ngay được
Nửa bởi hồ này cảnh qúa xinh
Lời bàn Của Con Cò
Một bài thơ thất ngôn bát cú điển hình.
Câu thứ 6 ̣là một tuyệt cú. Nhìn lá bồ còn non (nằm ngửa trong bầu trờì) mà tưởng như (ống) quần xanh (của đàn bà đang phơi nắng).
Câu kết siêu thực (nghĩa là không nói dối tí nào). BCD sống ở Hàng Châu rất lâu (cụm từ chưa nỡ rời tả yếu tố này). Không phải chỉ vì hồ qúa đẹp mà chưa nỡ rời (chỉ một nửa thôi). Nửa kia gồm nhiều lý do khác mà ông không có chỗ để liệt kê trong một bài thơ 56 chữ.
Mạnh Hạo Nhiên
6/Xuân hiểu
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu?
Dịch nghĩa
Buổi sáng mùa Xuân
Say sưa giấc xuân không biết trời đã sáng
Khắp nơi vang lên tiếng chim hót
Đêm qua có tiếng gió và mưa
Không biết hoa rụng bao nhiêu?
Dịch thơ
Buổi sáng mùa xuân
Say xuân ngủ qúa giấc
Khắp chốn chim thánh thót
Tối qua mưa gió gào
Ít nhiều hoa rụng mất
Lời bàn của Con Cò
Một tuyệt chiêu ngũ ngôn tứ tuyệt tả buổi sáng mùa xuân. Thời tiết qúa tốt nên ngủ qúa ngon, trời sáng rồi mà vẫn chưa mở mắt (biết trời đã sáng vì nghe tiếng chim inh ỏi khắp nơi). Hình như đêm có nghe thấy mưa rơi. Chắc hoa đã rụng ít nhiều. Mặc kệ! Vô tư! Ngủ thêm tí nữa!
Đỗ Mục
7/ Tích xuân
Hoa khai hựu hoa lạc
Thời tiết ám trung thiên
Vô kế diên xuân nhật
Hà năng trú thiếu niên
Tiểu tùng sơ tán điệp
Cao liễu tức văn thiền
Phồn diễm quy hà xứ?
Mãn sơn đề đỗ quyên.
Dịch thơ
Tiếc xuân
Hoa tàn khi vừa nở
Thời tiết ẩn trong trời
Ngày xuân không thể níu
Tuổi xanh chẳng ngừng trôi
Bướm ẩn tùng nho nhỏ
Ve kêu liễu cao vời
Phồn hoa đâu rồi nhỉ?
Quốc kêu khắp núi đồi.
Lời bàn của Con Cò
Đề tài này rất phổ thông nên bài thơ, dù bất hủ, rất khó vượt lên trên những bài tương tự. Nó thúc dục hưởng xuân cho mau vì xuân đang lúc cuối mùa. Tuyệt vời.
Sầm Tham
8/ Sơn phòng xuân sự kỳ 2
Lương viên nhật mộ loạn phi nha,
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
Đình thụ bất tri nhân khứ tận,
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.
Dịch nghĩa
Nét xuân ở nhà trong núi kỳ 2
Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều
Cây trong sân không biết rằng người ta đã đi hết
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa.
Chú giải
Lương viên: Sách Tây kinh tạp ký chép đời Nam Bắc triều (420 – 581), Lương Hiếu Vương là con thứ vua Lương Vũ Đế (502 – 550) mở vườn Đông uyển ở trong thành Thư Dương chu vi hàng mấy dặm, để làm chỗ chiêu tập hào kiệt bốn phương và những người du thuyết trong thiên hạ. Lương thường cùng tân khách và cung nhân hội yến trong vườn, rồi thả thuyền câu cá trong ao. Đời sau gọi vườn Đông uyển là Lương viên.
Dịch thơ
Nét xuân ở nhà trong núi kỳ 2
Vườn Lương chiều xuống qụa la đà.
Mỏi mắt tiêu điều ba bốn nhà.
Không biết trước đình người vắng bóng,
Xuân về hoa vẫn nở như xưa!
Lời bàn của Con Cò
Sầm Tham mượn vườn Lương để tả cảnh miền sơn cước. Thoạt nghe cứ tưởng ông không ưa cảnh xuân vắng người nơi rừng núi. Ông phàn nàn rẳng (2 câu đầu) nhìn mỏi mắt mà chỉ thấy lũ qụa bay loạn xạ, và vài ba căn nhà nhãi ranh!
Ông còn chê (2 câu sau) hoa của miền sơn cước nữa. Lại nở mấy bông hoa như năm xưa! Mấy bông hoa (khỉ gió) này biết rằng trước đình chả có ai thèm ngắm cho nên mới chường mặt ra như thế!
Đừng đòi hỏi nhiều qúa! Đây là cảnh xuân ở miền núi chứ không phải ở Trường An. Người miền núi nghèo lắm, kiếm cơm còn chật vật thì sức đâu mà thay đổi hoa mỗi năm! Họ chỉ ngắm hoa dại thôi. Mà hoa dại thì năm nào cũng giống nhau bởi vì cây năm nay mọc từ hạt vùi xuống đất trong năm ngoái.
Đó là nghĩa đen. Nghĩa bóng dễ thương lắm. Chỉ có 4 câu mà tả được một cảnh xuân rất đơn thuần, rất hoang vu, rất khác lạ của miền sơn cước. Độc gỉa cảm nhận được đời sống mộc mạc nghèo khó của dân miền núi. Chê mà thành khen. Ghét mà thành yêu. Xấu xí mà thành đẹp đẽ. Một lối diễn tả độc đáo, biến hóa khó lường.
Vương Hàn
9/ Xuân Nhật Tư Quy
Dương liễu thanh thanh hạnh phát hoa,
Niên quang ngộ khách chuyển tư gia
Bất tri hồ thượng lăng ca nữ
Kỷ cá xuân chu tại Nhược Da
Dịch nghĩa
Ngày xuân nhớ nhà
Dương liễu xanh xanh, cây hạnh ra hoa
Dáng xuân đẹp khiến khách lưu lạc nhớ nhà
Không biết các cô đang hát khúc ca hái ấu trên hồ
Đã ai chèo thuyền chơi xuân trên suối Nhược Da chưa?
Dịch thơ
Ngày Xuân Nhớ Nhà
Dương liễu xanh xanh hạnh trổ hoa
Xuân xui viễn khách nhớ quê nhà
Mấy cô hái ấu trên hồ hát
Có lái thuyền xuân tại Nhược Da?
Lời bàn cùa Con Cò
Không tìm thấy lời nào cho biết gốc tích cùa mấy cô hái ấu trên hồ trong câu 3. Xét theo ý của câu thơ thì có lẽ mấy cô này cùng quê với tác giả (qua bài ca hái ấu) và đã gợi ý cho tác giả làm bài này. Ý Chính của bài thơ này như sau:
Ngày xuân, xa quê, nhìn liễu xanh bát ngát và rừng hạnh trổ hoa, ta nhớ nhà buồn da diết. Thế mà mấy ả trên hồ kia cứ nhởn nhơ hát bài ca hái ấu (bài ca quen thuộc của quê cũ với giọng miền). Nếu đã từng chèo thuyền trên dòng suối Nhược Da (của quê cũ) trong mùa xuân thì hôm nay mấy ả chả vui đến thế đâu! (cảnh xuân ở Nhược Da đẹp gấp mấ́y lần cảnh́ này!)
Góp ý của Hoàng Xuân Thảo:
Bài “Lăng ca” là bài hát hái củ ấu miền Giang Nam. Nhược Da là ngọn suối quanh núi Nhược Da, huyện Thiệu Hưng, Chiết Giang, cũng thuộc vùng Giang Nam. Vương Hàn là người Sơn Tây. Nhược Da tương truyền còn là nơi xưa kia Tây Thi dệt lụa.
Bài thơ này làm chắc lúc tác giả đang ở vùng Giang Nam, đúng vào cảnh xuân, thấy cảnh bỗng nhớ nhà, không chỉ vì muà xuân ai nấy đều mong sum họp mà còn vì cảnh liễu xanh, trong thơ Đường thường là hình ảnh của chia ly, nhớ nhung. Ông tình cờ gặp mấy thôn nữ chèo thuyền hái củ ấu, chắc bâng khuâng tự hỏi, “biết đâu trong đám xuân xanh ấy, có kẻ sau này thành Tây Thi?”
Hàn Dũ
10/ Xuân tuyết
Tân niên đô vị hữu phương hoa,
Nhị nguyệt sơ kinh kiến thảo nha.
Bạch tuyết khước hiềm xuân sắc vãn,
Cố xuyên đình thụ tác phi hoa.
Dịch nghĩa
Tuyết mùa xuân –
Năm mới sang mà chưa thấy hoa tươi,
Đầu tháng hai chợt kinh ngạc thấy cỏ nảy chồi.
Tuyết trắng ghét xuân tới muộn,
Cố xuyên qua cây trong sân như những bông hoa bay.
Dịch thơ
Tuyết mùa xuân
Đầu năm mà chả thấy hoa tươi
Chợt tháng hai nhìn cỏ nảy chồi
Tuyết trắng ghét nàng xuân tới trễ
Chui luồn cây cối tợ hoa rơi.
Lời bàn của Con Cò
Bài thơ tả một cảnh xuân tới trễ, dễ ghét. Chả có hoa tươi. Chỉ có cỏ mọc um tùm. Lại thêm một thứ đáng ghét nữa: sương sớm gặp lạnh đông thành tuyết chui qua lá cành. Sao mùa xuân này vô duyên qúa vậy! Một mùa xuân chỉ có hoa tuyết! Khá đáng ghét nhưng cũng khá đẹp!
Tổng kết
Lý Bạch là thi tiên nên thơ thưởng xuân rất văn vẻ và đựơm mùi thương vay khóc mướn. Thương cho cặp vợ chồng trẻ phải sống xa nhau lúc xuân về (bài Xuân tứ). Vịnh cô hái dâu và công tử con quan Thái thú lơn nhau (bài Tử dạ xuân ca).
Đỗ Phủ, một lòng yêu nước thương dân nên trong thơ xuân, ông đã cảm ơn mưa xuân tác phúc cho đời (bài Xuân dạ hỉ vũ) vả cảm thương cho vận nứơc nổi trôi (bài Xuân vọng).
Bạch Cư Dị sảng khoái hơn. Thơ tả cảnh xuân của ông rất trong sáng và vui tươi (bài Xuân đề hồ thựơng).
Mạnh Hạo Nhiên tả xuân với phong độ của một người ở ẩn. Cứ an nhiên tự tại, tuyết rơi đêm xuân làm rụng hoa cũng bất cần (bài Xuân hỉểu).
Đỗ Mục, với biệt danh tiểu Lý Đỗ (nửa Lý Bạch, nửa Đỗ Phủ) xui thiện ha mau hửơng lạc kẻo mùa xuân đi qúa nhanh (bài Tích xuân).
Sầm Tham là một nhà ngoại giao, nửa đời làm sứ thần ở biên ải nên chỉ có xuân tha hương (bài Sơn phòng xuân sự kỳ 2).
Vương Hàn mỗi khi nhìn cảnh đẹp mùa xuân thì nhớ nhà (bài Xuân nhật tư quy)
Hàn Dũ mồ côi cha mẹ từ nhỏ rồi đựơc anh nuôi dưỡng, khi làm quan thì bị biếm rồi lại được trọng dụng nên thơ vịnh xuân của ông vui buồn lẫn lộn. Cảnh xuân mà có tuyết rơi cũng làm ông bức súc (bài xuân tuyết).
Cảm ơn các bạn đã chọn thơ để thưởng xuân và mời các bạn đọc góp ý của Trúc Cư và Hoàng Xuân Thảo.
Xuân Trong Đường Thi
Trúc Cư
Hai bạn Con Cò và Hoàng Xuân Thảo đa bàn loạn nhiều về Xuân trong thơ Đường rồi nên Trúc Cư chỉ xin góp cùng anh em vài câu thơ đón xuân như dưới đây:
Xuân đến sờ đầu, đầu không tóc
Sờ râu, râu cũng chỉ lưa thưa
Sờ da, da cũng nhăn như bị
Chỉ tại Xuân chê tớ đã già!
Trúc Cư
BÀN LOẠN của Hoàng Xuân Thảo:
Vừa đọc xong bài thơ tứ tuyệt khai bút đầu xuân của Trúc Cư, liền cảm hứng nảy ra một câu thơ để thay thế câu thơ chót của Trúc Cư. Vâỵ thì bài thơ sẽ như sau:
Xuân đến sờ đầu, đầu không tóc
Sờ râu, râu cũng chỉ lưa thưa
Sờ da, da cũng nhăn như bị
…Còn cái hòn bi chẳng dám sờ!
Trúc Cư & Hoàng Xuân Thảo
XUÂN VÀ HOA
Hoàng Xuân Thảo
Nói tới xuân không thể không nói tới hoa mà hoa xuân thì khiến người ta liên tưởng tới hoa đào ngoài Bắc và hoa mai trong Nam.
Nhân dịp “ Thiều quang chín chục chưa ngòai ba mươi” xin gửi tới quý thân hữu mười hai bông hoa mai trong bài thơ dưới đây:
THẬP NHỊ MAI HOA
Đầu xuân ngâm hài cú
Cảm hoài quê cũ vung bút khai
Mười hai đóa hoa mai.
Xuân về trên phương Bắc
Sao hết nhớ đào lại nhớ mai
Kià! Kià! hoa tuyết bay.
Gió bấc kinh sợ én
Vườn tuyết, riêng mai hé nụ cười
Xuân lấp ló đâu đây.
Bất chấp trời băng giá
Sương như búa thêm tuyết như cưa
Điềm nhiên mai nở hoa.
Có mai nên cốt cách
Có tuyết thêm sáng láng tinh thần
Xuân đủ mười phần xuân.
Bên mai lại nhớ cúc
Ngồi dưới khóm trúc ngắm giò lan
Đường lên đồi quanh quanh.
Em rằng: yêu mai trắng
Trên cổ áo tôi: toàn mai vàng
Trận ấy: giặc tan tành.
Trong mai in sắc tuyết
Trong tuyết rơi phấp phới mai bay
Yêu một mà tình hai.
Ta cùng người ly biệt
Chẳng cần đàn tiễn với rượu đưa
Nhớ mai rụng chiều mưa.
Mai rơi trên tuyết trắng
Tuyết hóa bùn đen dưới chân người
Rơi đâu cũng là rơi.
Dù ta múa gậy trúc
Nội lực lẫn võ công thượng thừa
Thua em, quyền mai hoa.
Gốc mai già vừa hẹn
Tuyết còn lất phất, người đã xa
Chưa hết một kỳ hoa.