THƯA quý bạn, không hiểu tại sao những năm gần đây con người dường như trở thành nóng tính hơn, dễ tức giận hơn, đi đền chỗ chửi bới, chém giết, sát hại nhau. Trong gia đình, có những chuyện chẳng ra làm sao, chỉ cần chồng ghen bóng ghen gió mà ra tay sát hại vợ, hoặc vợ ghen bóng ghen gió, ra tay sát hại chồng. Tất nhiên họ vào tù hoặc bị tử hình, bỏ lại những đứa con nheo nóc.
Trong khi đó, ở nhiều nơi thuộc vùng trung du phía Bắc, có những dân tộc thiểu số mà chúng ta vẫn cho là “lạc hậu” lại có những tập tực có thể coi là kỳ lạ, từ đó họ tránh được những chuyện ghen tuông đáng tiếc, nhất là các cô gái ít gặp hoàn cảnh bị muộn màng. Chẳng phải ĐD tôi ca ngợi họ mà chỉ xin “bổn cũ soạn lại” (tiếng của nhà văn Bình Nuyên Lộc trước năm 1975) để quý bạn xem xét, có lẽ cũng có một chút gì đó thú vị…
TỤC “COONG TRÌNH” CỦA NGƯỜI DAO ĐỎ Ở SA PA
Ở Sa Pa (cách Hà Nội khoảng 315 km theo đường cao tốc), người Dao Đỏ có dân số đứng thứ hai sau người H’Mông (Hơ Mông, hay còn gọi là người Mông). Họ cũng có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc, và là một bộ phận nhỏ của tộc người Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 1940 của thế kỷ trước. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối Thầu, Trung Chải…
Theo các nhà nghiên cứu thì người Dao có quan hệ mật thiết với người H’Mông. Trước đây, hai nhóm này được cho là có cùng nguồn gốc, nhưng sau khi thiên cư từ Trung Hoa vào Việt Nam thì hai cộng đồng này đã hình thành những đặc điểm khác nhau. Ngày nay, đến Sa Pa chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa người Dao và người Hơ Mông về hình dáng, trang phục, cách sinh hoạt v.v…, nhưng họ vẫn chung sống tại cùng một vùng núi mặc dầu nơi cao nơi thấp khác nhau.
Nếu người H’Mông thường chọn những nơi núi cao để ở thì người Dao lại chọn thung lũng hoặc lưng chừng núi ở để tỉa ngô, trồng lúa và thảo quả. Các lái buôn thường đến tận nhà thu mua, mang bán sang Trung Quốc nên cuộc sống của họ cũng khá. Nhiều nhà có xe máy, tivi, thậm chí là cả xe hơi, máy kéo dùng trong nông nghiệp.
Tộc người Dao có nhiều nhóm, nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ, bởi phụ nữ thường quấn khăn đỏ hay đội mũ đỏ, áo màu xanh đen nhưng có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, ở vạt áo và tà áo. Trang phục của họ được xem là đẹp nhất ở Sa Pa. Phụ nữ Dao Đỏ còn có tục tỉa bớt chân mày và tóc phía trên trán cho đẹp. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ Hán cổ gọi là chữ Nôm Dao, nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc, hiểu và viết được.
Người Dao có tín ngưỡng rằng loài chó là tổ tiên của họ nên chó luôn luôn được quý trọng. Ngoài ra, đàn ông chỉ được coi là trưởng thành sau khi đã chịu lễ cấp bằng sắc của nơi thờ cúng. Họ cũng có các tục lệ khác như gia đình nào đang nấu rượu thì cắm một cành cây trước cửa, không cho người lạ vào vì quan niệm rằng hễ có người lạ vào là rượu sẽ chua và khê. Khi thấy có dấu hiệu cắm lá trước cửa nhà người Dao, người ta kiêng không vào. Trong gia đình có phụ nữ sinh nở cũng cắm cành lá trước cửa để không cho người lạ vào, sợ đứa trẻ mới sinh sẽ khóc nhiều.
Họ cũng có tục kiêng sờ đầu trẻ con. Khi cắt tóc, cạo đầu cho trẻ họ để một chỏm tóc ở đỉnh đầu vì cho rằng đó là nơi trú ngụ của hồn vía con người, để chỏm tóc như vậy trẻ sẽ không hay ốm đau. Họ cũng quan niệm là nam và nữ khi chưa kết hôn thì không được chụp hình chung. Khách du lịch muốn chụp tốt nhất là hỏi trước họ.
Mỗi năm người Dao cũng có những lễ hội đặc biệt như: “Hội Tết, nhảy múa” tổ chức vào ngày Mồng Một và Mồng Hai tháng Giêng; “Hát hội giao duyên” vào ngày Mồng Mười tháng Giêng ở bản Tả Phìn, cách thị trấn Sa Pa khoảng 12km. Bản này nổi tiếng với các loại thổ cẩm đủ màu sắc và kiểu dáng do bàn tay khéo léo của phụ nữ H’Mông hoặc phụ nữ Dao tạo nên. Đặc biệt, họ có bài thuốc tắm bằng lá cây rừng của tổ tiên người Dao Đỏ truyền lại đến ngày nay, rất tốt cho du khách đi đường xa mệt mỏi.
Người Dao Đỏ không coi quan hệ “không phải vợ chồng” là vô đạo đức. Họ gọi chuyện đó là “coong trình”, thậm chí càng “coong trình” với nhiều đàn ông càng tốt.
Bản Tân Phong ở tỉnh Lào Cai là nơi có nhiều người Dao Đỏ sinh sống. Cách đây ít lâu, một sinh viên Nông Lâm ngoài hai mươi tuổi, mới ra trường, được cử về phụ trách kiểm lâm tại địa phương nên chưa hiểu gì về phong tục tập quán của người Dao Đỏ. Tới cơ sở, cậu được giới thiệu tạm thời ăn ngủ tại nhà ông trưởng bản. Đêm ấy, sau khi chủ nhà mổ gà, mời cán bộ kiểm lâm một chầu rượu say, cậu lăn ra ngủ.
Chừng nửa đêm, có hai cô gái tuổi độ 17-18 đến bên giường kéo áo cậu lôi dậy. Cậu chưa hiểu ra sao thì các cô thì thầm vào lỗ tai cậu: “Cán bộ ra rừng ngủ với chúng tao đi. Chúng tao thích cán bộ mà. Dậy đi ra rừng ‘coong trình’…”
Cậu kiểm lâm cố rúc đầu vào trong chăn thì hai cô gái càng lôi cậu mạnh hơn khiến cậu vô cùng sợ hãi. Trước khi lên vùng thượng du, người ta đã kể với cậu chuyện ma cà rồng hút máu người. Ma cà rồng hiện hình qua các cô gái xinh đẹp, đêm đêm đi tới các ngôi nhà, chờ thiên hạ ngủ say rồi cắn vào cổ, hút máu người đang ngủ. Ai bị ma cà rồng hút máu thì da vàng bủng vì mất máu rồi chết.
Trong ánh lửa từ lò nấu cám lợn và ngọn đèn đốt bằng mỡ trâu đặt trên giá của chiếc cột giữa nhà hắt tới, gương mặt hai cô gái Dao đẹp hoang dại, rực rỡ như hai đóa hoa rừng, cậu sợ quá hét lên. Nghe tiếng kêu, ông trưởng bản trở dậy. Thấy hai cô gái, ông bật cười nói gì đó với họ, họ cười rồi bỏ đi.
Sáng hôm sau, ông trưởng bản giải thích về tục “coong trình” của người Dao Đỏ cho cậu nghe rồi cười bảo cậu: “Mấy đứa con gái nó thích thanh niên miền xuôi nên muốn kéo cán bộ ra rừng ngủ với tụi nó đấy mà”. Cậu kiểm lâm trẻ tuổi bấy giờ mới tiếc hùi hụi!
Tháng 3 năm sau, hạt kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức lễ cúng rừng và làm thủ tục để người dân ký hợp đồng nhận khoán, bảo vệ rừng. Buổi tối, cậu kiểm lâm trẻ tuổi rủ cô gái Dao Đỏ xinh nhất trong bản vào rừng. Nhưng vừa mới ôm cô gái vào lòng thì cô ta hét toáng lên rồi vùng bỏ chạy về bản. Thì ra, cô gái không đồng ý “coong trình” với chàng kiểm lâm nên chàng bị phạt vạ.
Theo phong tục, chàng kiểm lâm phải mua hai con gà trống và hai chai rượu để gia đình cô gái cúng ma, gọi hồn cô gái lạc ngoài rừng về.
Kể lại chuyện này, anh chàng kiểm lâm cười khì khì: “Hồi ấy mình còn trẻ, chưa biết gì về phong tục của họ chứ bây giờ thì cứ cô nào thích là mình “coong trình” đại, chả tốn một đồng nào cả, lỡ có bị phạt cũng… rẻ!”. “Thế lỡ cô ấy có con thì sao?”. “Thì cô ta nuôi. Cô ta “coong trình” với bao nhiêu người, đâu biết là con của ai”.
Ông Đặng Văn Tâm, hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Lục Yên và ông Hoàng Cửu Tung, trạm trưởng Trạm Kiểm lâm Tân Phong nói rằng Tân Phong là nơi có tới ٩٦٪ dân chúng là người Dao Đỏ. Kể lại chuyện của mình, ông Tung cười: “Năm 2006, tôi được phân công phụ trách địa bàn xã Tân Phong. Hôm ấy đã muộn, tôi nghỉ lại tại nhà của một gia đình ở thôn Khiểng Khun. Chủ nhà mổ gà tiếp đãi tôi rất niềm nở. Cả chủ lẫn khách đều uống rượu say quá chừng. Người vợ của chủ nhà nhìn tôi với đôi mắt long lanh lạ lắm. Đêm ấy đã khuya, tôi đang ngủ thì thấy một phụ nữ chui vào trong mùng rồi ôm lấy tôi. Tôi giật mình tỉnh dậy thì thấy người ôm mình là vợ chủ nhà. Chị ta thì thầm vào lỗ tai tôi: “Mình thích cán bộ, cán bộ ‘coong trình’ mình đi!”. Tôi hoảng quá bèn mở cửa chạy ra ngoài vì sợ chủ nhà tỉnh dậy, nhưng anh ta vẫn ngủ say như chết. Anh ta uống rượu say quá! Vậy là tôi bèn quay trở lại mùng và “coong trình” cho vừa ý vợ chủ nhà…”.
Chuyện quan hệ tình dục của người Dao Đỏ khá phóng khoáng. Có người giải thích rằng do cuộc sống khép kín của cộng đồng người Dao Đỏ, nên quan hệ hôn nhân cận huyết khiến nhiều cặp vợ chồng vô sinh hoặc có những đứa trẻ sanh ra dị dạng hay kém phát triển về trí tuệ cũng như thể hình. Chính vì thế nên phụ nữ Dao Đỏ có phong tục duy trì nòi giống bằng cách quan hệ với nhiều đàn ông khác có vóc dáng cao to, đẹp trai, để sinh ra những đứa con khỏe mạnh, xinh đẹp.
Tập tục “coong trình” đã có từ lâu đời, chợ tình Sa Pa của người Dao Đỏ phải chăng là để giao lưu tình cảm, thỏa mãn nhu cầu tình dục hay sâu xa là cải tạo giống nòi? Điều này các nhà khoa học sẽ nghiên cứu tiếp để giải đáp. Nhiều người kinh ngạc khi nhìn thấy các cô gái Dao Đỏ xinh đẹp lạ thường, họ cho biết: “Các cô gái đó đẹp chẳng khác gì tiên sa. Không ai hiểu họ có phải là sản phẩm trong những đêm “coong trình” do mẹ của họ với những người đàn ông khỏe mạnh, đẹp trai ở nơi khác đến hay không?”.
Ông thợ săn tên là Bàn Phúc Châu sau khi nghe hỏi về phong tục “coong trình” và hỏi thật rằng trong đời ông đã “coong trình” với bao nhiêu phụ nữ rồi. Ông cười, rung đùi đầy hứng khởi: “Ô, không nhớ hết đâu. Mình xấu trai, các cô gái ít cô thích. Nhưng nếu vợ người ta thích thì mình cũng “coong trình” luôn”. “Lỡ chồng họ bắt được?”. “Thì mình bị nộp phạt hai con gà và hai chai rượu, rẻ thôi mà”.
Ông cười khoái trá rồi lại kể tiếp: “Vợ mình chắc nó cũng đi “coong trình” với nhiều đàn ông khác lắm nhưng mình không biết thì chịu, không được bắt phạt gà, rượu. Còn nếu nó có con với người ta thì cũng chả sao, đứa con đó gọi mình là bố chứ có gọi người kia là bố đâu. Có người không có con còn phải mua con nuôi nữa kia mà. Người Kinh bảo cá vào ao nhà ta là cá của tao, thì có gì mà phải buồn”.
Chị Triệu Thị Luyến, người hàng xóm của ông Bàn Phúc Châu, được ông mời sang chơi, uống rượu, nghe chuyện “coong trình” thì cứ cười khúc khích. Khi được hỏi ba đứa con của chị Luyến có mấy đứa là con của chồng? Chị Luyến cười, không biết nói thật hay dối: “Cả ba đứa đều là con của chồng em”…
TỤC ĐI “MÒ ĐÊM” NHÀ SƠN NỮ NGƯỜI THÁI ĐEN Ở SƠN LA
Sau đây là lời kể của một phóng viên ở Hà Nội, người xưng “tôi” trong bài mà ĐD đã sưu tầm được.
Trong chuyến công tác ở xã Suối Bàng, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, sau khi tôi đã xong công việc thì cũng là lúc trời bắt đầu sâm sẩm tối. Bởi vậy tôi đành đến xin ngủ nhờ tại nhà của một người dân trong bản. May mắn là dân chúng trong làng Pưa Lai này đều là những người tốt bụng, hiếu khách. Thế nên, tôi được ngủ nhờ ở nhà anh Đinh Văn Thắng và chị Lường Thị Giang, họ là đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau chưa đầy hai năm.
Bữa cơm thết đãi khách có thịt trâu và rượu ngô thơm nồng, đối với tôi quả thật là ăn mày vớ được xôi gấc, vì sau một ngày lặn lội đường đồi, đường núi, lại chẳng có quán xá nào để tạt vào ăn lót dạ, đến giờ tôi đã sắp đói lả, ấy vậy mà vợ chồng anh Thắng vẫn ái ngại, sợ bữa ăn đạm bạc quá, không phải lễ với khách.
Ngồi nhâm nhi chén rượu ngô, tôi hỏi anh Thắng vùng này có phong tục gì đặc biệt. Anh Thắng cười, hỏi lại:
– “Anh đã nghe nói tới tục “đi mò” chưa?”
Thật tình là khi nghe anh Thắng nói thế, tôi ngỡ anh nói mò ốc, mò cua gì đó. Có lẽ đoán được sự hiểu lầm của tôi, anh cười, bảo:
– “Đấy là một tập tục đã có từ lâu đời của người Thái Đen ở bản này. “Đi mò” là một kiểu tìm kiếm bạn tình, cũng giống như người Thái Trắng có tập tục “chọc sàn”, người Dao có tục “cạy cửa ngủ thăm”, người Mông có tục “đánh mông” chắc anh đã nghe qua…”.
(Chú thích: Người Thái còn gọi là người Tày. Thái Đen hay Tày Khao: chuyên mặc đồ đen. Thái Trắng hay Tày Đăm: chuyên mặc đồ trắng. Họ chiếm tới 55% dân số tỉnh Sơn La và có liên hệ về chủng tộc với người Thái Lan.– ĐD).
Anh cho biết, con trai ở bản Pưa Lai này cứ đến khoảng 15-16 tuổi là bắt đầu biết “đi mò” rồi, đứa nào không chịu khó đi mò thì chỉ có nước ế vợ. Họ có thể “đi mò” theo kiểu đánh lẻ hoặc từng nhóm. Nếu đi theo nhóm thì cứ việc đàng hoàng đến nhà cô gái mà mình ưa thích rồi gõ cửa, bố mẹ cô gái sẽ ra mở, mời vào nhà uống nước và trò chuyện. Vì “đi mò” là một phong tục nên dù có đến muộn bố mẹ cô gái cũng chẳng cảm thấy phiền hà. Sau khi đã chuyện trò, rào đón với “phụ huynh” dăm ba câu, đợi họ đi ngủ, cả nhóm sẽ kéo nhau về, để lại một mình anh chàng có tình ý với cô gái để hai người bắt đầu giai đoạn “tìm hiểu”.
Đối với những chàng trai thích “một mình xung trận” thì phải hẹn với cô gái trước. Đợi khi cả nhà đã đi ngủ, chàng trai đến gõ nhẹ vào cửa hoặc vào vách nơi cô gái ngủ làm hiệu, cô gái sẽ biết ý ra mở để chàng trai vào.
Ngược lại, đã thích một cô nào đấy nhưng nếu không hẹn trước, tối khuya chàng trai cứ tìm đến, lẳng lặng dùng dao lách vào khe cửa, bẩy cái chốt lên để vào nhà, đến buồng cô gái. May mắn được đồng ý, cô gái sẽ im lặng và cho vào giường. Còn nếu không được sự đồng ý, chàng trai vẫn cố ý chui vào giường để “tìm hiểu” rất dễ bị cô gái hô hoán cho bố mẹ đuổi về. Tuy nhiên, ở bản này chưa bao giờ xảy ra chuyện trai bản bị “muối mặt” như vậy.
Những chàng trai khi đã tìm được đối tượng để gửi gắm tình cảm, sau những lần “đi mò” rồi được cô gái ưng thuận cho ngủ lại thì sau đó sẽ về thưa chuyện và nhờ bố mẹ đến hỏi cưới. Tuy nhiên, trước khi lấy vợ, chàng trai phải đến nhà cô gái làm giúp một thời gian, nhanh thì ba tháng, chậm thì một năm. Trong lễ cưới, nhà trai phải là người lo hết mọi chi phí của đám cưới, từ của hồi môn cho đến việc cỗ bàn thết đãi khách bên nhà gái.
Kể xong anh Thắng nhìn sang vợ, chị Lường Thị Giang, và cười khì khì: “Nói đâu xa, cách đây hai năm tối nào tôi cũng cùng đám thanh niên đi mò đêm suốt ở cái bản Pưa Lai này, thậm chí là sang cả bản bên cạnh nữa. Cuối cùng là “mò” được cô ấy đấy”.
Thấy tôi háo hức muốn đi cho biết, anh Thắng giục vợ dẹp bát đũa, cùng tôi ra ngồi uống nước trà rồi bảo: “Cứ uống nước xong đi là vừa. Tí nữa mình gọi mấy thằng em ở bản, tối nào chúng nó cũng đi, cho cậu đi cùng luôn thể”.
Tôi đi “mò”
Tối hôm ấy, người em họ của anh Thắng tên là A Lý khoảng chừng 16 tuổi cùng mấy đứa bạn của nó cũng cỡ tuổi đó đến dẫn tôi đi. Đường đèo đầu mùa đông, lạnh giá. Đang đi, A Lý khẽ bảo tôi: “Tụi em dẫn anh vào nhà con bé tên Lanh, xinh lắm. Nó là “hoa chưa có chủ” vì mới cỡ 16 tuổi, đẹp nhất bản. Anh xem nếu nó đồng ý thì tụi em để anh ở đấy, tụi em có chỗ khác. Nó mới lớn, tán nó hơi khó, tụi em không thích”.
Căn nhà sàn của gia đình cô gái tên Lanh vẫn còn sáng ánh đèn, bố mẹ cô chưa đi ngủ. A Lý khẽ gõ lên cửa, một lát thì cánh cửa mở, cả bọn kéo tôi vào. Chúng tôi ngồi uống trà với bố mẹ của Lanh, còn cô thì ngồi e ấp trên giường của mình ở góc nhà sàn.
Thấy tôi lạ mặt, bố của Lanh hỏi chuyện. Tôi không dám nói thật mình là người Kinh ở dưới xuôi lên mà trả lời rằng là bà con của anh Thắng, hôm nay đến đây được mấy cậu em dẫn đi chơi.
Sau vài ba câu chuyện, bố mẹ Lanh biết ý, đi nghỉ và bảo chúng tôi cứ ngồi chơi. Tôi đang e ngại vì chưa hiểu tình thế ra sao, không biết nên về hay nên ở thì A Lý rủ rỉ vào tai tôi: “Con bé Lanh có vẻ “kết” anh rồi đấy. Từ nãy đến giờ nó cứ nhìn anh chằm chặp”. Nghe vậy, tôi để ý thì thấy đôi mắt tròn xoe, đen láy của Lanh đang nhìn tôi với gò má ửng hồng, không hiểu vì thời tiết lạnh hay vì bản năng riêng của con gái người dân tộc. Thấy tôi nhìn, cô bé mỉm cười quay đi. Thấy vậy, cả bọn cười, vỗ nhẹ vào vai tôi ra chiều chúc mừng rồi kéo nhau đi. A Lý bảo tôi: “Tụi em cũng loăng quăng ở gần đây thôi. Nếu có gì không ổn, anh muốn về sớm thì cứ ra bên ngoài, ho lên mấy tiếng là em biết, sẽ dẫn anh về”.
Đâm lao thì phải theo lao, đợi Lý đi xong, tôi mạnh dạn đến bên chiếc giường lót rơm làm nệm của Lanh, ngồi xuống cạnh giường. Bất ngờ, Lanh thả mùng xuống, cài chung quanh rồi kéo tôi vào trong mùng, ôm chầm lấy tôi, áp mặt vào ngực tôi và cười khúc khích: “Hồi chiều em đã gặp anh rồi”. Hỏi ra mới biết, lúc chiều tôi đi loanh quanh trong bản chụp hình, thấy một đám sơn nữ đang địu ngô trên lưng, từ đằng xa đi tới, tôi giơ máy ảnh ra chụp vài bức, té ra trong đám có Lanh mà tôi không biết.
Cũng nhờ “quen trước” như vậy nên tôi với Lanh nằm bên nhau, chuyện trò với nhau cởi mở hơn. Tôi thành thật kể cho Lanh nghe rằng mình là người Kinh ở dưới xuôi lên, Lanh cười: “Em biết rồi. Anh là nhà báo”. Tôi rất ngạc nhiên: “Sao em biết?”. “Tại vì anh có máy ảnh to loại chuyên nghiệp. Với lại nhà báo thì anh mới đi một mình chứ nếu là khách du lịch họ đi cả đoàn”. “Thế anh là người lạ, em không sợ à?”. “Không. Tối nào các trai bản cũng đến nhà em, có vài người quen mặt nhưng cũng có người lạ mặt, em không sợ đâu. Với lại con gái thì phải để người ta đến mới lấy được chồng, tục lệ ở đây là như vậy”.
Câu nói của Lanh khiến tôi cảm thấy thương nàng. Lanh có cảm tình với tôi. Tôi biết rõ điều đó. Các cô sơn nữ thường thích những chàng trai Kinh. Cũng có người đã ở lại đây, ăn đời ở kiếp với nhau, sống cuộc sống bình dị có thể coi là hạnh phúc. Nhưng tôi thì không, tôi sẽ phải trở về Hà Nội. Người ta bảo “ngủ thăm”, “mò đêm”, hoặc “chọc sàn” thì không được phép làm điều gì không trong sạch trước khi cô gái đồng ý và sẽ phải tính đến chuyện lâu dài. Riêng tôi thì khác, tôi là chàng trai người Kinh, tôi biết nếu tôi tiến tới, cô bé sẽ phá bỏ tục lệ, sẵn sàng chấp nhận nhưng tôi không thể làm như thế được…
Đợi cho Lanh ngủ yên, tôi rón rén trở dậy, cố gắng không gây tiếng động kẻo làm Lanh thức giấc. Trước khi chui ra khỏi mùng, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn nhỏ đặt trên chiếc giá ở giữa nhà, tôi thấy gương mặt cô bé trông thật hiền dịu và thật dễ thương, đôi môi hé mở trong giấc ngủ như một đóa hoa rừng. Tôi đặt nhẹ lên má nàng một cái hôn từ biệt. Chợt, tôi giật mình: trên hai gò má nàng có hai dòng nước mắt chảy dài nhưng Lanh vẫn giả bộ ngủ. Các cô sơn nữ là như thế, rất quý trai Kinh nhưng cũng hiểu khó có chuyện lâu dài nên đành im lặng chia tay…
ĐOÀN DỰ