Thú chơi câu đối (*)

Nguyễn Kiến Thiết
Trong các thú chơi tao nhã của người xưa, như thú uống trà, thú đọc sách, thú chơi đồ cổ, thú chơi xướng-họa, còn có Thú chơi câu đối. Nhứt là trong những dịp Xuân về Tết đến, có “Thịt mỡ dưa hành”, có “Nêu cao tràng pháo” thì câu đối đỏ càng điểm tô cho Xuân thêm hương sắc, Tết thêm ý nghĩa.

Câu đối là gì? Câu đối thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau, nhằm biểu thị một ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, một sự việc nào đó trong đời sống xã hội. Để ý: chữ biền là hai con ngựa chạy song song với nhau; ngẫu là chẵn đôi; chữ đối ở đây có nghĩa là ngang nhau, hợp thành một đôi.

Câu đối là một trong những thể loại của văn học Việt Nam, Trung Hoa, Nhựt Bổn v.v…Người xưa đã tán tụng câu đối như sau: “Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.

Câu đối bắt nguồn từ đâu? Cũng như thơ Đường luật, Câu đối có nguồn gốc từ Trung Hoa, là tinh hoa của văn hóa chữ Hán. Người Tàu gọi câu đối là doanh thiếp, doanh liên (doanh: cột; thiếp: mảnh giấy; liên: đối nhau) hoặc đối liên hay đào phù.
Câu đối Trung Hoa du nhập sang nước ta vào thế kỷ XV, cụ thể từ thời Lê Thánh Tông (1442-1497), tục chơi câu đối Xuân và Tết đã rất thịnh hành. Câu đối Việt Nam còn gọi là liễn hay liễn đối.

Chúng tôi xin nhấn mạnh một đặc điểm: Mặc dầu chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa cả ngàn năm Bắc thuộc – trong đó có Câu đối, nhưng tổ tiên người Việt chẳng những không bị đồng hóa, không bắt chước một cách rập khuôn, mà còn sáng tạo cái mới cho riêng mình. Nói khác đi câu đối của ta mượn “xác Trung Hoa” nhưng vẫn giữ cái “hồn Việt Nam”. Và cái “hồn Việt Nam” đã thoát khỏi cái xác thối rửa Trung Hoa từ khi ta có chữ nôm và chữ quốc ngữ. Đây chính là “bình cũ” nhưng đựng “rượu mới” đậm đà hương vị Việt Nam.
Cái “hồn Việt Nam” thể hiện ở câu đối trên ba phương diện: chữ viết, cách đọc và cách phân loại:
Về chữ viết: Ngoài câu đối viết bằng chữ Hán, câu đối Việt Nam còn được viết bằng chữ nôm và chữ quốc ngữ. Từ mấy mươi năm trở lại đây, hầu hết Câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ.

Về cách đọc: câu đối chữ Hán hoặc chữ nôm khi dán (treo) hoặc khắc trên cột, bắt buộc phải đọc ngược từ phải sang trái – theo cách đọc của người Tàu. Còn câu đối chữ quốc ngữ phải đọc thuận từ trái sang phải – theo cách đọc của ta.
Cách phân loại: câu đối Việt Nam có phần khác biệt với câu đối Trung Hoa (sẽ phân tích ở phần sau).

Nguyên tắc câu đối
Thật ra, ít có sách vở quy định về luật lệ của câu đối. Chúng tôi tham khảo quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, các tư liệu trên Net, đặc biệt dựa trên những cặp đối ngẫu trong thơ Đường luật, để nêu lên một số nguyên tắc câu đối.
Câu đối là những câu văn đi đôi với nhau thế nào cho ý, chữ và luật bằng trắc cân xứng nhau.
-Một đôi câu đối thì mỗi câu là 1 vế. Nếu do một người làm thì vế 1 gọi là vế trên; vế 2 gọi là vế dưới.
-Một đôi câu đối do hai người làm thì: Vế 1 do một người nghĩ ra để mời đối/thách đối, gọi là vế xuất, vế ra, vế “xướng”; vế 2 do một người khác đáp lại gọi là vế đối, vế đáp, vế “họa”…

a.Đối ý và đối chữ

Đối ý: hai ý phải cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
Chú ý: Phải chú trọng tới nội dung, chủ đề, ý chánh, ý phụ, tư tưởng của tác giả.
Cũng có khi người họa đối có tư tưởng “thoáng” hơn trong “phá cách” và “sáng tạo” (ít được đánh giá cao). Nhưng phải thật khéo kẻo bị “sập bẫy”.
Đối chữ: Phải xét hai phương diện thanh và loại.
– Về thanh: thanh Bằng (B) đối với thanh Trắc (T); và ngược lại.
– Về loại: danh từ đối với danh từ, động từ đối với động từ, v.v…Nếu vế xuất có đặt chữ Nho, thành ngữ, tục ngữ hay điển tích thì vế đối cũng phải đặt chữ Nho, thành ngữ, tục ngữ hay điển tích. Vì vậy người làm câu đối phải am hiểu tiếng Hán-Việt.
Ngoài ra, thực tự (những chữ nặng như: trời, đất, mây…) phải đối với thực tự; hư tự (những chữ nhẹ như: thì, mà, ru…) phải đối với hư tự.

b.Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhứt định. Tùy theo số chữ, cách đặt câu, câu đối gồm các thể sau: câu tiểu đối, câu đối thơ, câu đối phú.
c.Luật Bằng trắc
– Câu tiểu đối (có từ 4 chữ trở xuống): Vế trái: BBB; vế phải: TTT; và ngược lại.
– Câu đối thơ: Phải theo đúng luật Bằng Trắc (BT) của hai câu thực (3-4) và hai câu luận (5-6) trong lối thơ ngũ ngôn, hoặc thất ngôn.
Thí dụ: Lom khom dưới núi, tiều vài chú <-> Lác đác bên sông, rợ mấy nhà (Bà Huyện Thanh Quan).
– Câu đối phú (hoặc văn tế), có ba loại:
Song quan: là những câu có 6 đến 9 chữ đặt thành một đoạn liền.
Thí dụ: Nhọc nhằn cơn nhục mát cơn vinh <-> Cay đắng lúc cùng bù lúc phú (Cao Bá Quát).
Cách cú: Câu đối mỗi vế có hai đoạn, một đoạn ngắn, một đoạn dài. Để ý chữ cuối mỗi đoạn và chữ cuối mỗi vế phải khác thanh (B đối với T; và ngược lại).
Thí dụ: Thế mới biết học tài thi phận (T), miệng đàn bà con trẻ nói thế mà thiêng (B);
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay (B), tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng (T)- (Tú Xương – Phú Hỏng thi).
Gối hạc: Câu đối có từ haiđoạn trở lên: chữ cuối vế là B, thì chữ cuối các đoạn phải là T; và ngược lại.
*Chú ý: Có một nguyên tắc bất di bất dịch là chữ cuối mỗi vế luôn có thanh đối nhau: Bằng (B) đối với Trắc (T); và ngược lại.

4.Phân loại câu đối
Theo Dương Quảng Hàm, trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, câu đối Việt Nam gồm 11 loại theo ý nghĩa, như: câu đối mừng, câu đối phúng, câu đối Tết, câu đối thờ, câu đối tự thuật, câu đối đề tặng, câu đối tức cảnh, câu đối chiết tự, câu đối trào phúng, câu đối tập cú, câu đối thách (đối hay đố).

Chúng tôi xin được tản mạn về một số loại câu đối thông dụng như: câu đối Tết, câu đối thử tài và câu đối trào phúng.
*Câu đối Tết: Như đã dẫn trên, cứ mỗi độ Xuân về Tết đến, có “thịt mỡ dưa hành”, có “nêu cao tràng pháo” thì không thể thiếu Câu đối đỏ điểm tô cho Xuân hương sắc, Tết tưng bừng. Cũng cần nói thêm, song song với việc làm câu đối Tết, còn có cả sự phát triển của nghệ thuật thư pháp đầu tiên bằng chữ Hán hoặc chữ nôm, mà bài thơ Ông đồ nổi tiếng của Vũ Đình Liên đã phản ánh rõ nét thú chơi nầy:
Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già / Bày mực tàu giấy đỏ / Bên phố đông người qua…/
Hoa tay thảo những nét / Như phượng múa rồng bay.

Hơn mấy mươi năm trước – và cho tới ngày nay, cứ mỗi độ Xuân về, Tết đến, các tay thư pháp mới cũng đua nhau viết câu đối Tết – thường là chữ quốc ngữ, trên đường phố ở một số đô thị lớn như Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông tổ của thư pháp Việt chính là nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ (1906-1969). Phong trào thư pháp bằng chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi nhờ sự phối hợp ăn ý giữa kiến trúc sư Nguyễn Thanh Sơn và nhà thư pháp Trụ Vũ. Rồi trên các trang báo Xuân báo Tết cũng không thể thiếu Câu đối Tết!
Theo truyền thống người Việt Nam, mỗi độ Tết đến Xuân về, nhà nhà đều trang hoàng nhà cửa, cùng nhau mua sắm để chuẩn bị đón Xuân và…ăn Tết. Người ta chúc tụng nhau bằng những lời chúc tốt đẹp. Và câu đối Tết là một món quà Xuân đầy ý nghĩa, chẳng hạn như:
-Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ < --> Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường.
Các danh sĩ hàng đầu chơi câu đối Tết hoặc Hán, hoặc nôm phải kể đến Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương v.v… Một vài thí dụ:
-Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo Ma vương đưa quỷ tới;
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho Tiên nữ đón Xuân vào (Hồ Xuân Hương).
Hoặc: -Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa;
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà (Nguyễn Công Trứ).

*Câu đối thử tài
Các cụ xưa thường thử tài học trò, bằng hữu hay đối thủ của mình để …thử tài, để biết rõ chí khí, hoài bão của nhau qua những câu đối lý thú.
Chẳng hạn như Da trắng vỗ bì bạch.
Đoàn Thị Điểm (1705-1749) là người vừa xinh đẹp, lại giỏi văn thơ thời Lê Trung hưng, dịch giả truyện thơ Chinh Phụ Ngâm Khúc nổi tiếng. Một hôm nữ sĩ đang tắm, bỗng Cống Quỳnh (1677-1748) đến chơi, gõ cửa đòi vào. Nàng Điểm tức cảnh ra ngay một vế đối với điều kiện nếu Quỳnh đối được thì…cho vào!
Vế xuất ấy như sau: Da trắng vỗ bì bạch.
Quỳnh nghĩ nát óc mới đối: Trời xanh màu thiên thanh.
(Có người cho rằng vế đối nầy do một nho sĩ đời sau đối lại).
Bị cô Điểm chê không chỉnh, Quỳnh lủi thủi ra về.
Gần 300 năm nay, đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà nghiên cứu phê bình văn học, nhà ngôn ngữ học… đã thử đối lại vế xuất hiểm hóc ấy của Hồng Hà nữ sĩ. Nhưng trong mấy mươi vế đối, chưa có vế đối nào thật sự hoàn chỉnh, chẳng hạn như:
-Tay tơ sờ tí ti –Mắt đen ngó thị thâm –Tóc huyền mơ ngẩn ngơ – Hạc đỏ thở hồng hộc –Bèo cỏ trôi bình bồng –Má thắm nép hồng bào – Mập phù thở phì phò –Thanh la kêu đinh đang – Nước trong rơi tí tách v. v… Kể cả vế đối của nhà ngữ học Nguyễn Tài Cẩn “Rừng sâu mưa lâm thâm” vẫn chưa chỉnh. Thế là cho tới ngày nay, chúng ta vẫn chưa trả được “cái nợ văn chương” ấy.

*Câu đối trào phúng
Trào phúng là nghệ thuật gây tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội. Câu đối trào phúng nhằm nói lên cái dở, cái rởm, thói hư tật xấu của người đời, là võ khí sắc bén của kẻ yếu thế cô chống lại kẻ mạnh có quyền thế.
Vế đối khẩu khí dưới đây của Cao Bá Quát (1809-1855) đối lại vế xuất của vua Minh Mạng nhằm lên án chế độ bất công “cá lớn nuốt cá bé”:

Vế xuất của vua Minh Mạng: Nước trong leo lẻo cá đớp cá;
Vế đối lại của Cao Bá Quát: Trời nắng chang chang người trói người.

Thời hội nhập tại nước ta, có câu đối ám chỉ việc làm phi kế hoạch, vô trách nhiệm của các tham quan:
Sai đâu sửa đó, sai đó sửa đâu, sửa đâu sai đó < --> Lấy thu bù chi, lấy chi bù thu, bù thu lấy chi.
Cặp câu đối dưới đây phản ánh một cách nhẹ nhàng nhưng vô cùng chua xót thực trạng xã hội hiện nay:
Luồn lọt lên lương, lỗi lầm lấp liếm, luật lệ làm lơ, lũ lọc lừa luôn lẩn lút;
Phe phẩy phè phỡn, phân phối phập phù, phạm pháp phởn phơ, phường phản phúc phải phanh phui.
Ngoài ra còn có những loại “thầy” như: thầy giáo, thầy đồ gàn, thầy lang băm, thầy cúng… xuất hiện trong câu đối với dáng dấp buồn cười, lố bịch, tồi tàn, thê lương của họ.
Văn Bình lai bắc cụ: Giai thoại về học sinh “Văn Bình” hay chữ và tự cao tìm ông thầy đồ thách đối, bị ông thầy đồ chơi khăm như sau: Điều kiện là ông thầy khi ra vế xuất, ông chỉ nói ra từng chữ một, học trò phải đối lại từng chữ một.

Ông thầy đọc vế xuất (từng chữ một): Võ/Trắc/Vãng/Nam/Cô;
Học trò đối lại (từng chữ một): Văn/Bình/Lai/Bắc/Cụ.

Chắc quý vị đã thấy ông thầy đồ chơi khăm cậu học trò tự cao ở chỗ nào rồi phải không? (Nói lái).
Ông thầy đồ nầy không ai khác hơn là Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872).
Chúng tôi cũng như quý vị đã từng hành nghề “gõ đầu trẻ”, nhưng vì nghịch cảnh phải “đổi đời” nơi đất khách, nên rất thông cảm với sự bừa bộn, bầy hầy của những cậu giáo…nhọn (đối lại ông giáo …tà, không còn chỗ…đứng) mới ra trường, còn độc thân, ở nhà trọ, như vế xuất đối dưới đây:
Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Về sau có người đối lại: Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.
Thời bao cấp, kinh tế còn nhiều khó khăn nên tình trạng nghèo khó của giáo chức càng thê lương. Do vậy các “kỹ sư tâm hồn” xứ Nghệ đã tuôn ra đôi câu đối:
Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng thủng cả áo, lấy giáo án dán áo;
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa nhòa cả hương, dùng lương hưu lưu hương.
*Phép đối trong văn chương bình dân truyền khẩu, đặc biệt là thành ngữ, tục ngữ, ca dao cũ và mới. Thật vậy mặc dầu chỉ được truyền miệng từ đời nầy sang đời khác, nhưng các tác giả dân gian đã để lại cho hậu thế những câu đối khá thú vị. Đặc biệt về cách sử dụng Từ hoa, các thi sĩ bình dân quả là những nghệ sĩ điêu luyện.
– Đồng nghĩa dị âm: Con rể nết na xem tử tế <--> Ông chồng cay đắng kể công phu.

Tử tế nghĩa là con rể; công phu nghĩa là ông chồng.
– Đồng âm dị nghĩa: Bà cử, ở cữ, làm cữ, nên kiêng cữ <--> Ông hàn, ra hàng, ăn hàng, mắc thương hàn.
– Dùng các thuật ngữ có ý nghĩa liên quan với nhau:
Nước không chưn sao kêu nước đứng <--> Cá không giò cũng gọi cá leo.
Hoặc: Bánh nhiều quá sao kêu bánh ít <--> Chuối non nhớt cũng gọi chuối già.
Và: Bánh ít nhiều đường, bánh ít ngọt

Thật ra vế xuất nầy do Nguyệt san Kiến Thức Ngày Nay phát động (1997-1998), Chánh chủ khảo là GS An Chi. Vế đối trúng giải là: Giò chả có quế, giò chả thơm
Vế xuất nầy đã có tới trên 30 vế đối (sưu tầm và sáng tác), chẳng hạn như:
– Trầu không có vôi trầu không cay — Nem chả có bì nem chả ngon
– Cây đa ít lá cây đa tàn (khuyết danh) — Sầu riêng lắm múi sầu riêng dài (Tống Minh Hằng);
– Sầu đâu ít lá sầu đâu buồn (Trần Hữu Quyền)–Tôm khô đẫm nước tôm khô căng (Lộc Bắc).
Giai thoại Vợ cả vợ hai, hai vợ đều là vợ cả:

Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951) và Dương Bá Trạc (1884-1944) thường viết ra những giai thoại nhằm đả kích thực dân Pháp và tay sai, trong số đó có một câu chuyện rất hay và vui, đại khái như sau:
Một anh nông dân ở làng nọ có hai vợ. Theo thói thường, người vợ nhỏ vốn có nhan sắc và trẻ trung nên được “sủng ái” nhiều hơn. Một chiều nọ, để tránh sự so bì “một tháng đôi lần, có cũng không” của người vợ lớn, anh chồng nổi hứng đề nghị: “Anh ta ra một vế đối, nếu ai đối “họa” được thì tối nay, anh sẽ “vô buồng” ngủ với người ấy”. Cả hai bà vợ đều đồng thanh tán thành.
Anh chồng bèn đọc: Vợ cả vợ hai, hai vợ đều là vợ cả.

Cô vợ nhỏ khiêm tốn nhường lời cho người vợ lớn đối trước. Nhưng chị vợ lớn vốn ít chữ nên chịu thua.
Người vợ nhỏ bèn ứng khẩu đáp: Chồng thôi chồng nửa, nửa chồng cũng vẫn chồng thôi.

Trước năm 1975, trong một bài báo, tôi có thử đối lại cho vui, nhưng chưa chỉnh lắm:
– Người ta người mọi, mọi người cũng giống người ta.
Ngoài ra, còn có hơn 20 vế đối (sưu tầm và sáng tác) nữa, nhưng vẫn chưa chỉnh, chẳng hạn như:
-Con nuôi, con đẻ, đẻ con há cậy con nuôi — Con giòng, con giống, giống con mới thiệt con giòng.
-Chồng thôi, chồng bỏ, bỏ chồng cũng có chồng thôi (LB)-Đi chơi, đi làm, làm đi xong lại đi chơi (LHQL).
*Câu đối Nói lái: nhiều vô số, khi thì thanh khi thì tục, thể hiện tính hài hước của dân tộc Việt Nam. Nói lái -nói trại, là cách nói kiểu “chơi chữ” của dân ta trong những lúc trà dư tửu hậu hoặc để giúp vui, như:
Chim mỏ kiến đậu trên miếng cỏ / Chó vàng lông đứng dựa vồng lang (viết đúng là giồng).
Con cá đối để trên cối đá / Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.

Riêng Câu đối nói lái tục mà thanh thanh mà tục có khá nhiều. Chúng tôi đang nói chuyện về một đề tài văn hóa, nên xin được dẫn vài câu đối nói lái có vị…mằn mặn. Ước mong các cụ…đặc xá!
-Gái Củ Chi, chỉ cu anh, hỏi củ chi? < --> Trai Cù Mông, còng mu em, đòi cù mông.
-Giai nhân “tái đắc” giai nhân tử <--> Anh hùng “khai đống” anh hùng tiêu.

Kết luận: Để kết luận, chúng tôi xin nhấn mạnh bằng cách lặp lại một số chi tiết:

1.- Câu đối là một thú chơi tao nhã. Tất cả mọi người, mọi giới đều có thể gia nhập “sân chơi” miễn là tuân thủ “luật chơi”. Câu đối có thể nói là một khoa Tu từ học đắc dụng cho những ai hằng lưu tâm đến ngôn ngữ học, nói riêng và văn hóa dân tộc, nói chung.
2.-Khi ra vế xuất / vế xướng hoặc họa đối lại, phải nắm vững nguyên tắc căn bản, quy luật của Câu đối: đó là đối ý và đối chữ. Đặc biệt Câu đối thơ (5-7 chữ), phải tuyệt đối tuân theo luật Bằng Trắc của thơ.
Câu đối phú (song quan, cách cú, gối hạc), luật Bằng Trắc có thể du di. Bằng chứng là đã có nhiều (rất nhiều) tay cự phách chuyên trị câu đối đã “thoải mái du di”. Nhưng câu đối vẫn hay.
3.-Phải để ý có bao nhiêu “cái bẫy” trong câu đối, để khỏi “sập bẫy”.
4.- “Muốn làm câu đối thật chuẩn…bắt buộc phải biết tiếng Hán-Việt”. Rất đồng ý với nhận xét trên, nhưng chúng tôi xin mở một lối thoát, bởi các lý do:

*Ở hải ngoại, số người sử dụng nhuần nhuyễn tiếng Việt ngày càng ít đi, nên việc học tiếng Hán-Việt là cả một vấn đề vạn nan. Đối với các bậc thức giả, nhằm phục vụ cho các công trình khảo cứu thơ văn cổ của tiền nhân, việc rèn luyện tiếng Hán–Việt là mục tiêu hàng đầu.
*Thoát Hán, thoát Trung: Phải thoát “xác Trung Hoa” để thăng hoa “hồn Việt Nam”. Chúng ta nên làm câu đối bằng chữ quốc ngữ, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao và điển tích Việt Nam. Chỉ sử dụng rất ít tiếng Hán-Việt hoặc điển tích Trung Hoa thông dụng, trong trường hợp bất khả kháng.

Cuối cùng, chúng tôi xin mượn đôi câu đối Tết vừa sáng tác để chúc Tết toàn thể quý vị và bạn đọc:
Tiễn chú gà đi, đừng ghét nhau tiếng gáy, quyết tâm xóa sổ lũ cõng rắn rước voi(**)
Mừng anh chó đến, chớ sủa bậy cắn càn, ra sức tiêu trừ phường treo dê bán chó.

Chúng tôi ước mong nhận được nhiều ý kiến phản hồi, những phê bình xây dựng của các bậc thức giả am tường về câu đối, ngõ hầu bổ sung những sai sót của mình.

Montréal, ngày 18 tháng 11 năm 2017
———————
(*) Trích từ bài thuyết trình nhân buổi Đại Hội Cựu Giáo Chức Montréal ngày 18 tháng 11 năm 2017
(**) Trong Cuộc thi Câu Đối vừa qua do Hội Cựu Giáo Chức tại Montréal phát động, với tư cách Trưởng ban Giám khảo, chúng tôi đã sáng tác vế xướng nầy để mời đối. Trong 7 vế đối dự thi, có hai vế đối trúng giải:
– Giải 1: Nghênh cô Chó đến, hãy đâu cật chung vai, bền chí thanh trừng phường buôn dân bán nước. (Trần Hữu Quyền)
– Giải 2: Mừng anh Cún tới, hãy cùng sủa oang oang, đồng lòng bôi tên bày ôm hùm thân sói (Cả Ngố).

Xem thêm

Nhận báo giá qua email