(* hình bên góc trái: từ hình bìa nhạc Chuyến Đò Vĩ-Tuyến, do họa sĩ Duy-Liêm vẽ năm 1956)
Bùi Đức Tính
Trước ngày Lễ Giáng Sinh, một thân hữu viết cho nhóm liên lạc chung trong Cộng đồng người Việt nơi đây rằng:
“Giáng Sinh năm nay lặng lẽ, nhưng vẫn là Giáng Sinh….”
Thật vậy!
Những ngày Lễ cuối năm nay đã thật khác lạ. Lạ như con vi khuẩnđã lặng lẽ đến từ một nơi nào đó. Nólàm cho chungquanh mình phải lắm mất mát; mất mátnối nhau mất mát,trong lặng lẽ. Trong cơn dịch cúm còn tràn lan, người ra đi từ bệnh việnkhông được thân quyến cùng bạn hữu kề cậnbên mình trong giây phút cuối. Phút cuối trước khi lìa đời đã không có người thân.Tiển đưa sau cùng đến nơi an nghỉ nghìn thu cũng trong thưa vắng, vì tang lễ đã không được phép tụ họp đông đảo như bình thường.
Cơn dịch cúm lạ đã làm tất cả sinh hoạt bình thường trở thành … lạ lẫm!
Từ cả năm nay, âm thanh ngôn ngữcủa con người bây giờ nghe phì phà lạtai; nó phát ra từ những đôi môi vô hình, mấp máy đâu đó bên dưới lớp vải che mũi và che miệng.Ngoài phố, người quen cứ tưởnglà xa lạ; khó nhận ra ngay.Khuôn mặt quanh mình trông tương tự như nhau với các mặt nạ.Ở những nơi có quá nhiều ô nhiễm, người ta phải bịt mũi, bịt mặt, lâu ngày thành thói quen và quen tai, quen mắt. Mặt nạ nơi đây, dù có lắm kiểu cách, hoa lá màu mè tươi tắn, cũng vẫn không mang lại niềm tươi vui; không thể che đậy được thực trạng của … chính mình.
Quanh đây,… lo âu, sợ hãi, tránh né, …!
Cuối năm, luật an toàn cho sức khỏe nơi đây càng nghiêm ngặt hơn. Ngày Lễ Giáng Sinh năm nay, giáo đường thiếu vắng tín đồ và Thánh Lễ nửa đêm thật buồn thảm. Người ta vẫn đón mừng Chúa giáng sinh; nhưng tiếng hát, niềm vui chào đón Ngôi Hai Thiên Chúa, lời chúc mừng, …đã khônggiống như bình thường. Cũng chuỗi đèn màu lấp lánh, cũng bài Thánh Ca, cũng …vẫn khác lạ!
Nhưng … vẫn là Giáng Sinh!
Và rồi, Lễ Giáng Sinh cũng qua đi … lặng lẽ!
Người rời trần thế, để về miền miên viển vẫn ra đi trong âm thầm!
“Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình
Ngoài hiên nắng loé, đàn chim giật mình
Biết lời tỏ tình, đã có người nghe
Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành
Đời mong manh quá, kể chi chuyện mình
Nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh…”
Như lời nhạc đã viết trong sáng tác “Một Mình”, nhạc sĩ Lam Phương như hạt sương lìa cành, đã ra đi một mình; một mình trong bệnh viện, lúc cơn đại dịch vẫn còn đang tràn lan, nên thân nhân đã không được phép vào thăm viếng.
Cuộc đời của người nhạc sĩ tài hoa đã khép kín nghìn thu, vào ngày 22 tháng 12 năm vừa qua!
Sự ra đi của ông là một mất mát lớn cho biết bao người ái mộ Lam Phương, trong dòng tân nhạc miền Nam.Nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác nhạc khi còn rất trẻ. Năm 15 tuổi, ông sáng tác ca khúc Chiều Thu Ấy.Nhạc sĩ Lam Phương đã để lại với hơn 200 tác phẩm, trải rộng trong nhiều đề tài như thân phận con người, thăng trầm của mệnh nước, quê hương, tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi, tình lính như các ca khúc Bức Tâm thư, Tình Anh Lính Chiến, Chiều Hành Quân.” …
Vào thập niên 1790, có một vị Sa môn mà người đời sau không rõ thế danh và pháp danh, đến mé sông Rạch Giádựng một ngôi chùa đơn sơ bằng cây lá, để tu tịnh và đặt tên chùa là Thập Phương Tự.Sau đó,Chúa Nguyễn Ánh có dừng chân đến viếng chùa, lễ bái và đã sắc phong cho chùa là “Sắc Tứ Thập Phương Tự”.Nhà của gia đình nhạc sĩ Lam Phương ở bên kia bến sông, ngang chùa Thập Phương. Hình ảnh miền Nam với đồng lúa vàng phì nhiêu, và cuộc sống dân lành hiền hòatừ thuở nhỏ, cùng những chuyến đò đưa khách sang sông;đã in đậm trong tâm hồn ông từ tuổi thơvà chan chứa trong nhiềuca khúc về quê hương.Có những chuyến đò chia ly, xa rời quê hương như trong Chiều Tây Đô, Chuyến Đò Vĩ-Tuyến.Bài Chuyến Đò Vĩ-Tuyến viết từ năm 1955, là một trong những ca khúc giúpnhạc sĩ Lam Phương nổi tiếng khi ông mới 17 tuổi.Trong thập niên 1950 này, nhạc của Lam Phươngmang nhiều cảm xúc về cuộc di cư từ Bắc vào Nam,năm 1954.
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, đất nước Việt Nam bị chia đôi tại vĩ tuyến 17. Sông Bến Hải, chảy theo vĩ tuyến này, được dùng làm ranh giới phân chia hai miền Nam Bắc. Hiệp định Đình chiến đã cho phép người dân Việt Nam có một thời gian dài đến ba trăm ngày,để lựa chọn nơi mình muốn cư ngụ. Nhờ vậy, gần một triệu đồng bào từ miền Bắcđã kịp thời di cư vào miền Nam tự do.Số ngườidi cư vào Nam còn nhiều hơn thế, nếu nhà cầm quyền Bắc Việt đã không dùng các cách để khủng bố tinh thần và cản trở việc ra đi của đồng bào tại đó.Lúc bấy giờ, chiến dịch “Cải cách ruộng đất” đẫm máu, đang diễn ra trên khắp vùng đồng quê miền Bắc nước Việt mình.Những thủ đoạnngăn cản dân chúng di cư vào Nam đã làm dân cư miền Bắcnổi dậy.Cuộc biểu tình tại Quỳnh Lưu, vào ngày 13 tháng 11 năm 1956, có đến 100.000 đồng bàoQuỳnh Lưu và đồng bàotỉnh Nghệ An. Trước khí thế của đoàn người biểu tình, lực lượng công an đã phải lẩn trốn. Dân chúng đã leo lên nóc Ty Công An, xé cờ đỏ sao vàng, đập vỡ ảnh Hồ Chí Minh và các lãnh tụ cộng sản quốc tế.Văn Tiến Dũng được lệnh đảng điều động Sưđoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về đánh dẹp. Cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là một cuộc đấu tranh đẫm máu, có đến 6.000 người dân Quỳnh Lưu đã bị giết.Trong cuộc di cư từ Bắc vào Nam, nhiều gia đình phải phân tán, vì nhiều người không muốn rời bỏ quê nhà hoặc ruộng vườn. Đồng bào miền Bắc nấn ná chần chờ để rồi vuột mất cơ hợi tìm vào miền Nam tự do. Lắm người thân đi sau bị ngăn cản, không tìm được lối thoát và rồi đành phải ở lại khi thời hạn di cư vào Nam chấm dứt.
Tuy phải gói ghém trong khuôn nhạc, “Chuyến Đò Vĩ-Tuyến” đã kể lại trọn một chuyện tình với cuộc từ ly Bắc Nam não nùng.Hàng đêm cô gái ra đầu làng, bên bờ sông Bến Hải, chờ đón người vượt rừng vượt núi đến điểm hẹn, để trong đêm thâu lén đưa người sang vĩ tuyến và cùngvề nơi “phương Nam ta sống trong thanh bình. Tình ngát hương nồng thắm, bên lúa vàng ngào ngạt dâng”
Để rồi,… bao đêm thổn thức dưới trăng ngà, anh vẫn điêu linh nơi quê nhàmiền Bắc đang chìm đắm, và dòng sông Bến Hải bạc hai màu đã vĩnh viễn ly cách hai người.
“Đêm nay trăng sáng quá anh ơi!
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu.
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến.
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng
Ơ… ai… hò …
Giòng sông mơ màng và đẹp lắm
Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ
Hò… hơ ….hò ….hơ …
Em và cùng anh xây một nhịp cầu
Để mai đây quân Nam về Thăng Long
Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng!
Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi
Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thùy.
Ai gieo chi khúc hát lâm ly
Như khơi niềm nhớ cuộc từ ly lòng não nùng
Bùi ngùi nhìn cách xa ngàn trùng
Giờ đây anh điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm.
Bao đêm thổn thức dưới trăng ngà
Hồn đắm say chờ đón ngày anh về sưởi lòng nhau …
Ơ … ơi … hò … hò … ơi … ơi … hò ….
Ơ … ơi … hò ….hò … ơi … ơi … hò ….”
Ơ . . . ơi . . . hò . . .
Tiếng hò miền Nam êm đềm nhẹ nhàng như cuộc sống tự do hiền hòa nơi đây. Qua âm nhạc, nhạc sĩ Lam Phươngđã vẻ nên hình ảnh miền Nam với ruộng đồng phì nhiêu thanh bình vàdòng sông mơ màng, cùng lời than tiếc cho dòng sông như duyên phận bị chia đôi hai bờ.
“Ơ… ơi… hò …
Giòng sông mơ màng và đẹp lắm
Anh ơi ai nỡ chia đôi bờ để tình ta ngày tháng phải mong chờ”
Những câu hònhẹ nhàng êm ái, giọng hò kéo dài tự do như ước mơ,càng thấm thía lòng ngườihơn,trong mong chờ được gặp lại người thương và cuộc sống thanh bình qua lời nhạc:
“Hò… hơ …. hò ….hơ …
Em và cùng anh xây một nhịp cầu
Để mai đây quân Nam về Thăng Long
Đem thanh bình sưởi ấm muôn lòng!’
“Chuyến Đò Vĩ Tuyến” được viết vào năm 1955, một năm sau khi đất nước bị chia đôi. Một tác phẩm mà hơn sáu mươi năm sau, vẫn còn làm rung động hàng triệu trái tim người Việt trong nước, và những người lưu vong trên thế giới. Và … không ngờ rằng, hai mươi năm sau, từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, những chuyến đò trong đêm lại lênh đênh trên sóng nước, lén đưa đón người tìm đường vượt trốn chế độ cầm quyền. Thêm một lần nửa, người phải xa người và lần này người Việt phảixa quê nhà và rời đất nước Việt Nam mình.
Nhạc sĩ Lam Phương cũng đã chung số phận với hàng trăm ngàn thuyền nhân. Ông đã phải bỏ lại quê hương Việt Nam, vượt biển tìm tự do. Để rồi ngậm ngùicùng niềm đau của hàng triệu chia ly trong ngày mất nước, viết lên những dòng nhạc, trong ca khúc có tựa đề với mỗi một chữ, chữ …Mất!
“Sau phong ba trời thêm đen tối
Lìa quê hương từ lúc đổi dời
Trong cơn đau dường nghe lòng gian dối
Đời đâu ngờ mình gạt lệ xa nhau
Anh có biết ngày ba mươi mất nước
Ngày chia ly, ngày của tù đầy
Em phiêu lưu vào khung trời mây xám
và tứ bề là biển rộng mênh mông”
“Con Tàu Định Mệnh” đã đưa Lam Phương cùng hàng trăm ngàn đồng bào ra đi tìm tự do. Từ một chuyến đò đến những con tàu nhiều sóng gió, mà tình thương thật đầy, người Việt mình đã phải ra đi …
“Khi đi thấy đường đã xa,
bây giờ đường về xứ
còn xa hơn nghìn lần …”
Thật vậy!
Bây giờ đường về xứ vẫn còn xa, xa hơn nghìn lần.
Nhạc sĩ Lam Phương đã không trở về quê nhà như ông hằng ao ước, như đêm mơ thấy “mình ríu rít đưa nhau về, về thăm quê xưa với vườn cau thề”
Quê hương ơi!
Việt Nam nước tôi!
Việt Nam của ngày xưa ta quen từng viên đá quanh sân trường.
Nay vẫn còn … nghe sao khác từ tên đường!
Cuối năm 2020
Bùi Đức Tính